BỘ
TƯ LỆNH
BỘ
CHỈ HUY QUÂN VIỆN HOA KỲ, VIỆT NAM
ĐOÀN
NGHIÊN CỨU QUAN SÁT
APO
SAN FRANCISCO 96222
MACSOG 7
Tháng Ba 1969
Về
Việc: Chuyển Phụ Bản F, 1968 Chiến Sử (U)
(Phần bị xóa)
Vì lý do bảo mật, số cơ quan được gửi đến rất giới hạn.
Sidney
Gritz
Đại
Tá Lục Quân
Phụ tá Đại Tướng
PHỤ
BẢN F (HÀNH QUÂN ĐẶC BIỆT) MACV 1968
1. TỔNG QUÁT
a. Phụ bản này cung cấp
chi tiết về các hoạt động của đơn vị SOG (Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát) cơ quan
MACV (MACSOG) trong năm 1968. Các chương trình (Hành Quân 34A, 35,…) cùng các
hoạt động được bao gồm trong phụ bản này.
b. Năm (Khói Lửa) 1968
được đánh dấu bằng nhu cầu (hành quân) gia tăng, cải tiến thủ tục, phát triển
thêm quan niệm mới, theo dõi chặt chẽ hơn, giới hạn một vài chương trình, nới rộng
hoặc bỏ giới hạn trong các chương trình khác của đơn vị SOG. Những chương trình
chống lại chính quyền miền Bắc (NVN), Quân Đội Bắc Việt (NVA) và Việt Cộng (VC)
trên đất Lào và Cambodia, và yểm trợ các đơn vị trong miền Nam Việt Nam (năm
1968, đơn vị SOG / Nha Kỹ Thuật chuyển hướng hành quân một phần về nội điạ, yểm
trợ cho các đơn vị bạn - Tết Mậu Thân). Việc yểm trợ cho các đơn vị bạn gia tăng,
lệnh hành quân từ các bộ chỉ huy cấp cao (vùng chiến thuật).
c. Nội bộ đơn vị SOG được
tái tổ chức, xây đựng thêm căn cứ, gia tăng kỹ thuật (hành quân, hoạt động), quân
dụng, vũ khí mới sẽ làm tăng hiệu năng hành quân của các toán biệt kích SOG.
2. NHIỆM VỤ
Nhiệm vụ cho Đoàn Nghiên
Cứu Quan Sát, cơ quan MACV được liệt kê dưới đây:
a. Đặt dưới quyền chỉ
huy trực tiếp của tư lệnh cơ quan MACV và tòa Đại Sứ Hoa Kỳ, đơn vị SOG sẽ cố vấn,
huấn luyện và yểm trợ lực lượng đối tác (Nha Kỹ Thuật VNCH) trong các hoạt động
chiến tranh ngoại lệ, tâm lý chiến ở trong và ngoài miền Nam Việt Nam.
b. MACSOG sẽ soạn thảo
kế hoạch cho các hoạt động chiến tranh ngoại lệ trong những chương trình đã có
sẵn của Hoa Kỳ trong vùng Đông Nam Á châu. (Đặc Nhiệm Hỗn Hợp Chiến Tranh Ngoại
Lệ, Đông Nam Á).
Nhiệm vụ này dựa trên công
điện COMUSMACV Msg TSLD 37284 / 2102292 Tháng Mười năm 1965, được tư lệnh Thái
Bình Dương chấp thuận bằng công điện CINCPAC Msg 182128Z tháng Mười Một năm
1965.
3. TỔ CHỨC
a. Bộ chỉ huy đơn vị
SOG bắt đầu hoạt động năm 1968 với Bảng Phân Phối Hỗn Hợp (JTD) ngày 30 tháng
Mười năm 1967. Được chấp thuận số nhân viên gồm 155 sĩ quan, 251 binh sĩ và 10
dân chính, tổng cộng 416 người. Ngày 15 tháng Tám 1968, 44 quân nhân Phi Đoàn Số
1 thuyên chuyển từ MACSOG JTD qua Đệ Thất Không Lực (7th Air Force),
và đặt trực thuộc đơn vị SOG. Ngày 3 tháng Mười 1968, cơ quan MACV ra lệnh giảm
bớt 11 quân nhân. Đến cuối năm, đơn vị SOG có tất cả 361 nhân viên gồm: 125 sĩ
quan, 226 binh sĩ và 10 nhân viên dân chính.
b. Chỉ huy trưởng đơn vị
SOG ra lệnh tái tổ chức bộ chỉ huy trong tháng Chín, xác định vai trò rõ ràng
cho các phòng, ban, và nhân viên. Tổ chức mới có hiệu lực kể từ ngày 7 tháng Mười
Hai.
4. CẤP CHỈ HUY
Đại Tá John K.
Singlaub, 037040, USA chỉ huy đơn vị SOG từ ngày 14 tháng Năm 1966 đến 3 tháng
Tám 1968. Đại Tá Singlaub được thay thế bởi Đại Tá Stephen E. Cavanaugh Jr.,
036485, USA.
5. QUẢN TRỊ NHÂN VIÊN
Nỗ lực chính yếu cho năm
1968, thiết lập đơn vị hành chánh cho bộ chỉ huy SOG, bao gồm tất cả mọi điều lệ
trong việc quản trị nhân viên. Huấn luyện nhân viên mới, gia tăng hiệu qủa quản
lý giấy tờ cho bộ chỉ huy.
6. TÌNH BÁO
Trong suốt năm 1968,
nhu cầu tin tức tình báo cho đơn vị SOG hoạt động, phổ biến, cao hơn so với những
năm trước. Điều này làm cho phòng Tình Báo làm việc nhiều hơn để cung cấp số lượng
tin tức tình báo cao và bảo đảm giá trị của nguồn tin tình báo. Phòng tình báo
phát triển kỹ thuật mới để gia tăng số lượng, rút ngắn thời gian giải đoán tin
báo cho các hoạt động của đơn vị SOG (các toán biệt kích).
7. CHƯƠNG TRÌNH FOOTBOY
a. Hành Quân Biệt Hải –
Plowman
(1) Một trăm bốn mươi
(140) chuyến hành quân Plowman hoàn tất trong năm 1968, các mục tiêu dọc theo bờ
biển miền Bắc Việt Nam. Bao gồm ngăn chặn, bắt sống tù binh, phá hoại khu vực bờ
biển. Hành quân biệt hải ngăn chặn (MINT) tiếp tục đem lại hiệu qủa số tầu của địch
bị đánh chìm (bị xóa).
(2 & 3 bị
xóa)
(2) Trong
năm, số tầu PTF tăng lên 11 chiếc, làm tăng khả năng hành quân biệt hải bất cứ
lúc nào (around the clock). Hành quân bẩy ngày trong tuần là mục tiêu cho năm
1968, khi thời tiết thích hợp. Mục tiêu này đạt được.
(3) Sáu chuyến
hành quân đặc biệt, tấn công từ biển vào bờ được thực hiện trong năm 1968. Cấy
chỉ huy cao hơn ra lệnh giới hạn các hoạt động cho các toán biệt kích, biệt hải,
giảm bớt đe dọa cho miền Bắc Việt Nam. Ngày 1 tháng Mười Một, mọi chuyến hành
quân Plowman chấm dứt theo quyết định của Tổng Thống Hoa Kỳ.
(Phần bị xóa)
(4) (bị xóa)
8. HÀNH QUÂN VƯỢT BIÊN
(LÀO, CAMBODIA)
a. Hành Quân Prairie
Fire (PF). Tiếp tục trên đất Lào suốt năm 1968, mặc dầu một số lượng lớn hành
quân đã chuyển hướng về nội điạ miền Nam để yểm trợ các vùng chiến thuật. Tổng
quát số chuyến hành quân xâm nhập đã tăng gấp đôi năm 1967, tuy nhiên số chuyến
hành quân “vượt biên” chỉ tăng 16%. Quan niệm “Lùng, Xác Định Vị Trí, Tiêu Diệt,
Theo Dõi” (SLAM) tiếp tục được xử dụng trong năm 1968. Toán biệt kích Nha Kỹ
Thuật (Lôi Hổ) xâm nhập vào khu vực, tìm kiếm, xác định vị trí đơn vị, căn cứ của
địch cho trung đội Khai Thác (Hatchet Force) được trực thăng đưa vào phá hủy.
Sau đó toán biệt kích âm thầm nằm lại theo dõi… các hoạt động của địch trong
khu vực.
b. Hành Quân Daniel
Boone (DB). Các chuyến hành quân xâm nhập tiếp tục qua hết năm 1968. Vài giới hạn
được bỏ, tăng thêm phương tiện nên số chuyến hành quân Daniel Boone tăng gấp đôi
(100%). Để đáp ứng nhu cầu chiến thuật trong dịp Tết Mậu Thân, 57% số lượng hành
quân Daniel Boone chuyển hướng về nội điạ miền Nam. Đến cuối tháng Chín, tình hình
trong miền Nam tạm yên, hành quân Daniel Boone quay trở lại phần đất Cambodia đến
95%. Các toán biệt kích Lôi Hổ đem về tin tức, quân đội Bắc Việt gia tăng sự hiện
diện trên đất Miên, và xây dựng các căn cứ dọc theo đường biên giới Việt-Miên.
9. KHÔNG TRỢ
a. Phòng Không Yểm (Chương
trình 32, OP-32) phối hợp, cung cấp nhu cầu không trợ cho các hoạt động tác chiến
của đơn vị SOG (Biệt Hải) [Chương trình Footboy] nơi vùng biển miền Bắc, biệt
danh MIDRIFF, và không vận yểm trợ theo thời khóa biểu các hoạt động của đơn vị
SOG trong vùng Đông Nam Á. Phòng này cũng phối hợp với Đệ Thất Không Lực Hoa Kỳ
(7 Air Force) yểm trợ hành quân Prairie Fire (Lào), Daniel Boone (Cambodia).
b. MIDRIFF. Các hoạt động
trong chương trình Footboy.
c. Prairie Fire /
Daniel Boone. Các chuyến hành quân qua Lào và Cambodia thực hiện trung bình mỗi
tháng hơn 49 phi vụ. Các hoạt động yểm trợ này bao gồm 28 chuyến chở quân biệt
kích xâm nhập, 20 phi vụ trực thăng võ trang yểm trợ mỗi ngày trong suốt năm.
d. Không Vận. Trong năm
1968, chương trình 32 (Không Yểm) thực hiện theo thời khóa biểu, phối hợp việc
chuyên chở 8.888.447 pounds hàng hóa quân dụng thường và bí mật, 40.915 hành khách.
Việc này đòi hỏi thực hiện 4.895 phi vụ, 6.348.5 giờ bay, gồm bốn vận tải cơ
C-130, bốn C-123 thuộc phi đoàn Air Operation Group, đóng trong phi trường Nha
Trang, Nam Việt Nam và hai phi cơ thuê hợp đồng với China Airlines của Đài Loan
(Taiwan).
10. LIÊN LẠC
Ba sĩ quan liên lạc làm
việc cho đơn vị SOG. Một sĩ quan giữ liên lạc thường xuyên với Nha Kỹ Thuật,
hai sĩ quan còn lại làm việc với Quân Đoàn I và II VNCH, giữ liên lạc giữa đơn
vị SOG và hai quân đoàn VNCH, Các trung tâm hành quân, đơn vị lớn trong vùng trách
nhiệm, và giữa các bộ phận thuộc đơn vị SOG.
11. TIẾP VẬN
Các hoạt động tiếp vận
trong năm 1968, chủ yếu phát triển thủ tục, thêm nhiệm vụ để phục vụ các hoạt động
của đơn vị SOG. Đến cuối năm, phòng Tiếp Vận tái tổ chức do nhu cầu tăng trưởng,
các hoạt động của đơn vị SOG gia tăng.
12. TÀI CHÁNH
Ngày 21 tháng Mười
1968, phòng Tài Chánh ra khỏi phòng tiếp
vận (độc lập). Trong quarter thứ hai (tam cá nguyệt) năm 1969, ngân khoản hàng
năm của đơn vị SOG bị giảm 25% từ 525.000 xuống 394.000. Ngân khoản bí mật nhận
được trong nửa năm 1969 là 14.777.000
13. KẾ HOẠCH
Phòng Kế Hoạch làm việc
suốt năm 1968, soạn thảo, cung cấp các kế hoạch hiện tại, ngắn hạn, dài hạn cho
đơn vị SOG và các hoạt động chiến tranh ngoại lệ, cũng như lấy ý kiến của cấp
chỉ huy cao hơn. Soạn thảo chương trình “Hậu Chiến”, những mục tiêu cho phần còn
lại trong năm.
14. TRUYỀN TIN
Vấn đề truyền tin, thông
tin, liên lạc gia tăng nhiều trong năm 1968 để yểm trợ sự thành lập các toán biệt
kích STRATA (Đoàn 11) ở Đà Nẵng, căn cứ tiền phương cho Biệt Hải (NAD) ở Phan
Thiết. Một chương trình huấn luyện cho nhân viên truyền tin đơn vị SOG về mật
hiệu để vấn đề truyền tin được an ninh.
15. TRUNG TÂM PHỐI HỢP
THÂU HỒI NHÂN MẠNG (JPRC)
a. Trung Tâm Phối Hợp
Thâu Hồi Nhân Mạng (JPRC, Chương Trình 80, OP-80) có nhiệm vụ cung cấp khả năng
(của cơ quan MACV) cho các hoạt động thâu hồi nhân mạng. Trung tâm thực hiện 45
chuyến trong năm 1968.
(Phần bị xóa)
b. Ngoài ra trung tâm
tham dự những chuyến hành quân cấp cứu tù binh trốn thoát đang lẩn trốn, bao gồm:
(bị xóa)
và thường xuyên thuyết trình cho các phi hành đoàn, Hải, Lục, Không Quân về khả
năng, nhiệm vụ của Trung Tâm Phối Hợp Thâu Hồi Nhân Mạng (JPRC).
c. (bị xóa) và hổ trợ cho chương trình này với các hoạt động
tâm lý chiến.
PHỤ
BẢN I
HÀNH
CHÁNH NHÂN VIÊN
1. TỔNG QUÁT
Phòng Hành Chánh Nhân
Viên làm nhiệm vụ Phòng 1 (G-1), và phụ tá việc tổ chức, do đó phòng có nhiệm vụ
phối hợp và phòng nhân viên đặc biệt.
2. NHIỆM VỤ
a.
Cố vấn, phụ giúp chỉ huy trưởng đơn vị SOG vấn đề hành chánh nhân viên.
b.
Phổ biến thủ tục quản trị nhân viên theo lệnh của các bộ chỉ huy cao cấp, thi hành,
bổ sung nhân viên đơn vị SOG, thủ tục hành chánh.
c.
Trách nhiệm về nhân viên, phối hợp các nhiệm vụ quản lý trong đơn vị SOG. Mọi vấn
đề vê nhân viên, bao gồm tuyển mộ, thuyên chuyển, bổ nhiệm.
d.
Điều hành, phối hợp các hoạt động các ban, ngành trực thuộc về quản trị nhân viên,
các đơn vị trực thuộc đơn vị SOG.
e. Giữ liên lạc với các
cơ quan, đơn vị Hoa Kỳ khác về vấn đề nhân viên.
3. TỔ CHỨC
Phòng Hành Chánh Nhân
Viên có hai ban trực thuộc: Ban Dịch Vụ Nhân Viên và Ban Dịch Vụ Hành Chánh. Ngày
31 tháng Mười Hai 1968, phòng có 19 nhân viên gồm 4 sĩ quan và 15 binh sĩ.
4. THÀNH QUẢ
a. Trong năm 1968, phòng
Hành Chánh Nhân Viên xây dựng chương trình quản lý hành chánh cho bộ chỉ huy
SOG, nhấn mạnh “làm thế nào” chỉ dẫn cho tất cả mọi nhân viên, quân nhân phục vụ
đơn vị SOG.
b. Phòng cũng cải tiến
việc giấy tờ, soạn văn thư, mẫu đơn quân đội (đi / đến), phép tắc. Ngoài ra còn
những bản báo cáo thành tích, khả năng của sĩ quan phục vụ trong đơn vị SOG.
c. Phòng cũng xem xét lại
các văn thư cũ, để điều chỉnh, bổ sung, phát hành cuốn cẩm nang cho nhân viên,
quân nhân trong đơn vị.
d. Phòng được trang bị
thêm dụng cụ văn phòng mới, máy photocopy Xerox 914, để làm việc nhanh chóng dễ
dàng hơn.
5. NHÂN VIÊN
Một danh sách sĩ quan
giữ chức vụ quan trọng, thời gian phục vụ đến năm 1968 có trong bảng TAB B.
PHỤ
BẢN II
TÌNH
BÁO
1. TỔNG QUÁT
a. Mục tiêu phòng tình
báo SOG đặt ra cho năm 1968 là tiếp tục phát triển về số lượng cũng như phẩm chất
những tin tình báo các toán biệt kích Nha Kỹ Thuật Lôi Hổ đem về. Ngoài ra, phòng
tình báo thâu thập tin tức từ các cơ quan khác, giải đoán nhanh chóng, cung cấp
cho các toán biệt kích làm nhiệm vụ.
b. Với quan niệm làm việc
mới, phòng tình báo hoàn thiện những kỹ thuật sản xuất tin tức tình báo đã có sẵn.
Ban thẩm định mục tiêu phối hợp việc thâu thập, phổ biến tin tức tình báo theo
nhu cầu của các bộ phận. Tiếp tục cải tiến việc nghiên cứu không ảnh để yểm trợ
cho các toán biệt kích. Luôn thử nghiệm kỹ thuật mới để áp dụng trong ngành tình
báo.
2. NHIỆM VỤ
Nhiệm vụ căn bản cho phòng
tình báo là thâu thập, phối hợp và cung cấp tin tức cho các hoạt động của đơn vị
MACSOG. Bao gồm các nhiệm vụ dưới đây:
a. Cố vấn vị chỉ huy
trưởng SOG về những tin tức tình báo, tóm tắt việc nghiên cứu, phỏng đoán về những
nguồn tin thâu thập được.
b. Sửa soạn tài liệu hướng
dẫn, thủ tục lấy tin tức, xử dụng tin tức tình báo cho đơn vị SOG, cũng như phổ
biến đến các cơ quan bạn.
c. Cố vấn vị chỉ huy
trưởng về vấn đề an ninh và sửa soạn những lệnh cần thiết.
d. Điều hành những việc
liên quan đến hoạt động tình báo, các ban ngành trực thuộc đơn vị SOG.
e. Giữ liên lạc với các
cơ quan bạn, đơn vị quân đội về vấn đề tình báo.
f. Bảo đảm các hoạt động
được chú ý quan trọng về việc thâu thập tin tức tình báo để yểm trợ, phối hợp với
những cơ quan tình báo Hoa Kỳ.
3. TỔ CHỨC
Tại thời điểm cuối năm
1968, phòng tình báo chia ra làm bốn ban, 35 nhân viên:
a. Ban Hoạt Động: Ban này
có năm tiểu ban: Nghiên Cứu Lào (các tin tức tình báo liên quan đến hành quân
Prairie Fire), Nghiên Cứu Cambodia (các tin tức tình báo cho hành quân Daniel
Boone), Nghiên Cứu Việt Nam, chia ra làm hai bộ phận, một là chương trình “Gián
Điệp”, bộ phận kia lo về Hành Quân Biệt Hải, Nghiên Cứu Không Yểm (các tin tức
tình báo không yểm ở Nam Việt Nam, Lào và Miên), và tiểu ban Khai Thác (trách
nhiệm vấn đề khai tác tù binh do các toán biệt kích bắt được). Ban Hoạt Động có
13 nhân viên.
b. Ban Nghiên Cứu Không
Ảnh: Ban này cung cấp phần phân tích tình báo không ảnh cho các đơn vị trực thuốc
MACSOG qua ban Hoạt Động để yểm trợ cho các hoạt động của đơn vị SOG. Ban này có
hai tiểu ban: Giải đoán không ảnh cung cấp tin tức tình báo về các mục tiêu, phòng
rửa / tráng phim cung cấp những tấm không ảnh. Đến cuối năm 1968, tiểu ban giải
đoán không ảnh có 11 nhân viên, và hai nhân viên làm việc trong phòng rửa / tráng
phim.
c. Ban An Ninh: Ban này
cố vấn trưởng phòng Tình Báo về vấn đề an ninh và sửa soạn các lệnh cần thiết.
Ban này có năm nhân viên thêm sáu người làm việc (trong ban).
d. Ban Hành Chánh: cung
cấp dịch vụ hành chánh cho phòng Tình Báo. Ban này có ba nhân viên thêm ba người
làm việc (trong ban).
4. NHỮNG PHÁT TRIỂN CỦA
PHÒNG TÌNH BÁO
Phòng Tình Báo đã phát
triển những điều sau đây để nâng cao phẩm chất, cung cấp tin tức tình báo nhanh
chóng, yểm trợ cho các hoạt động của đơn vị SOG.
a. Tái tổ chức phòng tình
báo: gia tăng hoạt động liên quan đến mục tiêu, tiếp tục phát triển các hoạt động
suốt năm, thêm công việc cho nhân viên. Tái phối trí nhân viên để yểm trợ cho sự
gia tăng hoạt động của đơn vị SOG. Xây dựng phòng rửa / tráng phim trong ban Không
Ảnh để cung cấp tin tức tức thời nhanh chóng, trước đó do tiểu đoàn 69 Truyền
Tin cung cấp.
b. Báo cáo tin tức tình
báo: Phòng Tình Báo có nhiệm vụ báo cáo lên Phòng 2 cơ quan MACV J2. Những điều
báo cáo bao gồm:
(Phần bị xóa)
Phòng 2 (J-2) cơ quan
MACV bảo đảm những tin tức tình báo MACSOG cung cấp có phẩm chất cao. Những bản
báo cáo, đánh giá tin tức tình báo sẽ được theo dõi làm nền tảng cho sự phát
triển.
(4) Liên lạc: Phòng Tình
Báo cho phép nhân viên văn phòng liên lạc với các sĩ quan đối tác thuộc Phòng Tình
Báo cơ quan MACV (MACV J-2).
(5) Thuyết trình: Một phần trong việc báo cáo của phòng Tình Báo
là tóm lược buổi thuyết trình về tin tức tình báo của đơn vị MACSOG cho vị Tư Lệnh
cơ quan MACV. Thường có sĩ quan cao cấp MACV tháp tùng ông ta, phần thuyết trình
bao gồm những tin tức mới nhất do các toán biệt kích SOG/NKT đem về. Bản thuyết
trình phải được Phòng 2 MACV xem xét trước, tham khảo trước khi thuyết trình
cho vị tư lệnh MACV cùng các sĩ quan tham mưu cao cấp. Các buổi thuyết trình này
được đem ra trong các buổi họp “lựa chọn mục tiêu”, thời khóa biểu cho các toán
biệt kích xâm nhập.
c. Hành Quân Prairie
Fire (Lào):
(1) Ủy ban “Lựa Chọn Mục
Tiêu” được bắt đầu trong tháng Mười. Quan niệm mới này cho phòng Tình Báo đảm
trách việc phối hợp giữa đơn vị MACSOG và vị Tư Lệnh cơ quan MACV việc nhận diện,
lựa chọn mục tiêu, và thời khóa biểu “ưu tiên” cho các mục tiêu cho các hoạt động
của đơn vị SOG (các toán biệt kích SOG / NKT). Các đại diện Phòng 2 MACSOG và cơ
quan MACV họp hàng tuần để xem xét các nguồn tin tức tình báo, soạn thời khóa
biểu cho các mục tiêu, và kết qủa các chuyến hành quân xâm nhập.
(2) Những tin tức tình
báo thâu thập được trong khu vực hành quân Prairie Fire năm 1968, là những tài
liệu giá trị để nghiên cứu tình báo, soạn thảo kế hoạch hành quân.
(3) Quan niệm “Lùng, Xác
Định Vị Trí, Tiêu Hủy, Theo Dõi” (SLAM) / xử dụng đơn vị lớn thám sát đem lại kết
qủa tốt. Phòng tình báo tiếp tục khai thác tin tức do chương trình này đem về.
(4) Để rút ngắn thời
gian thâu thập tin tức do các toán biệt kích đem về, sáu sĩ quan Tình Báo do Liên
Đoàn 1 Lực Lượng Đặc Biệt Hoa Kỳ tăng cường lên các làm việc trên các căn cứ Hành
Quân Tiền Phương (FOB) để lấy tin tức “tại chỗ” từ các toán biệt kích trở về.
(Phần bị xóa)
d. Hành Quân Daniel
Boone (Cambodia):
(1) Quan niệm về Ủy Ban
“Lựa Chọn Mục Tiêu” cũng được áp dụng trong hành quân Daniel Boone sau khi đã
thành công trong hành quân Prairie Fire.
(2) Tiểu ban Nghiên Cứu
Cambodia tiếp tục xử dụng hệ thống lấy tin tức tình báo, để cung cấp tin tức
cho các bản báo cáo, soạn thảo kế hoạch hành quân xâm nhập.
(3) Hành quân Daniel
Boone được tăng cường ba sĩ quan tình báo từ Liên Đoàn 1 LLĐB/HK lên các căn cứ
hành quân để lấy tin tức tình báo tức thời do các toán biệt kích SOG / NKT đem
về.
e. Hành Quân Plowman
(Biệt Hải):
(1) Trong năm 1968, việc
hoán chuyển hồ sơ hành quân Plowman từ hệ thống hồ sơ ADP sang Hệ Thống Lưu Trữ
Hồ Sơ Tình Báo, xử dụng băng (băng IBM) hoàn tất. Hệ thống mới nhận được (đọc
được) nhiều thể loại (format) hồ sơ để lưu trữ và lấy ra, trợ giúp việc soạn thảo
kế hoạch hành quân và cung cấp cho hành quân Plowman (Biệt Hải).
(Phần bị xóa)
f. Các Hoạt Động Tình Báo
Không Quân:
(1) Để trình bầy chính
xác hơn khả năng phòng không của địch gia tăng ở miền Bắc Việt Nam, trên đất Lào
và Cambodia, cung cấp chi tiết tin tức tình báo cho đơn vị hành quân MACSOG, hình
ảnh tất cả phi cơ, pháo binh phòng không, [bị xóa],
hệ thống điện tử, bố trí binh điạ. Phụ thêm phần hình ảnh phi cơ bạn bị trúng đạn
từ dưới đất bắn lên của địch. Vị trí các dàn hỏa tiễn Bắc Việt ngày tháng không
ảnh chụp được [bị xóa].
(2) Vấn đề yểm trợ bằng
trực thăng trở nên khó khan trong những tháng cuối năm, địch quân đã đưa vào
khu vực hành quân Prairie Fire nhiều vũ khí phòng không. Một hệ thống yểm trợ
được đưa ra, hình ảnh tình báo không quân được gửi ra các căn cứ hành quân tiền
phương của đơn vị SOG. Các tin tức tình báo không quân được gửi đi ngay tức khắc
khi phòng tình báo nhận được.
(3) Để chống lại hệ thống
phòng không của địch đối với vấn đề không yểm cho đơn vị SOG (các toán biệt kích).
Ban tình báo không quân tổ chức thăm viếng, thuyết trình cho các đơn vị trực
thuộc (SOG) về hệ thống phòng không của địch.
g. Phân Tích Không Ảnh,
Hình Ảnh:
(1) Có sự tiến bộ trong
việc cung cấp tin tức tình báo cho đơn vị SOG, thêm phần báo cáo tin tức tình báo
bằng hình ảnh cho các căn cứ hành quân tiền phương (các toán biệt kích) xử dụng.
Mẫu mới bao gồm (1) hình ảnh khu vực mục tiêu với phần ghi chú mới nhất, và (2)
phần phân tích về mục tiêu, điạ hình.
(2) Số lượng ảnh do các
toán biệt kích chụp được đem về càng gia tăng, làm cho phòng tráng / rửa phim
thêm bận rộn. Dụng cụ, máy móc mới được đơn vị SOG đặt hàng.
(3) Để rút ngắn thời
gian cung cấp hình ảnh (mục tiêu) cho đơn vị SOG, một cơ sở rửa / tráng phim,
in ấn được xây dựng ngay trong bộ chỉ huy SOG, giải quyết vấn đề gửi những (cuộn
phim) khẩn đến tiểu đoàn 69 Truyền Tin, mất thời gian từ 7 đến 10 ngày. Tất cả
mọi cố gắng đều nhằm mục đích giảm gánh nặng cho năm 1969. Các bộ chỉ huy tiền
phương (CCN, CCC, CCS) cũng được trang bị phòng sản xuất phim ảnh, bớt gánh nặng
cho bộ chỉ huy SOG và rút ngắn thời gian hoạt động trên các bộ chỉ huy tiền phương.
(4) Ban Giải Đoán Không
Ảnh trở nên một phần trong chương trình huấn luyện
trưởng toán biệt kích trong
căn cứ Long Thành.
5. CÁC HOẠT ĐỘNG TÌNH BÁO
a. Hành Quân Prairie
Fire
(1) Báo Cáo Tin Tức Tình
Báo (IIR):
(a) Trong thời gian từ
1 tháng Giêng 1968 đến 31 tháng Mười Hai 1968, 411 bản báo cáo IIR đã được trình
lên về các hoạt động của địch và điạ thế trong khu vực hành quân Prairie Fire.
Năm 1967 chỉ có 277 bản báo cáo được soạn.
(b) Tiếp theo trận Tấn
Công Tết Mậu Thân trong tháng Giêng 1968, Các hoạt động trong khu vực hành quân
Prairie Fire chuyển hướng vào nội điạ (Nam Việt Nam), số chuyến hành quân xâm
nhập vào đất Lào giảm đi cho đến cuối tháng Chín, hành quân Prairie Fire hoạt động
bình thường trở lại. Không có bản báo cáo IIR ch các chuyến hành quân nội điạ.
(2) Nghiên Cứu, Phỏng Đoán,
Thêm Vào:
(a) Một hệ thống tình báo
thêm vào chương trình OPLAN 37B-68 (Phần II Prairie Fire Intelligence Net) được
sửa soạn.
(b) Một việc nghiên cứu
cho các hoạt động Thundercloud trong khu vực tam biên (xử dụng cán binh Bắc Việt
hồi chánh)
(c) Việc nghiên cứu các
hoạt động của quân đội Bắc Việt dọc theo đường mòn HCM (hệ thống đường, đường mòn
nơi hướng tây nước Lào, dung để đưa người, quân dụng từ miền bắc vào nam) đã hoàn
tất và phân phối qua báo cáo IIR 799 0099 68. Bản báo cáo này được cơ quan Tình
Báo bộ Quốc Phòng (DIA) thẩm định có giá trị.
(d) Nghiên cứu các căn
cứ chứa đồ tiếp vận (LOC) của địch trên đất Lào để xác định đường tiếp vận cho
các đơn vị Bắc Việt / VC.
(e) Một buổi thuyết trình
về các căn cứ tiếp vận của địch trên đất Lào được sửa soạn, trình bầy trước Ủy
Ban Graham.
(f) Một bản phân tích
trận B-52 thả bom (Arch Light) trên căn cứ điạ 613 được hoàn tất.
(g) Nghiên cứu hình ảnh,
không ảnh trên đường 92, 922 và 548 cho các hoạt động trong chương trình Igloo
White (gài máy đo mức độ di chuyển của người và xe trên đường)
(h) Ban tình báo khu vực
hành quân Prairie Fire nghiên cứu kết qủa các trận thả bom do phi cơ B-52 thả
xuống các mục tiêu trên đất Lào. Trong việc này, các toán biệt kích SOG xâm nhập
vào khu vực thả bom, thẩm định kết qủa, đem về tin tức có giá trị cao. Bản báo
cáo gửi về MACV.
(3) Lựa Chọn Mục Tiêu và
Tiến Hành:
(a) Trong suốt năm, 600
mục tiêu đã được chọn lọc, xâm nhập, trong đó 235 mục tiêu được “thăm viếng” trở
lại (thường xuyên).
(b) Hai mục tiêu mới được
đưa vào bảng phong thần hành quân Prairie Fire.
(4) Các Chuyến Xâm Nhập
Đặt Máy Nghe Lén Điện Thoại:
(a) (bị xóa)
(b) Sáu chuyến xâm nhập
gắn máy nghe lén điện thoại thành công, hai chuyến trong nội điạ, bốn chuyến
trong khu vực hành quân Prairie Fire. Tám chuyến còn lại phải hủy bỏ vì địch hoạt
động mạnh trong khu vực.
(5) Những Tin Tức Tình
Báo Quan Trọng Sản Xuất Trong Năm 1968:
(a) Các toán biệt kích
xác nhận (kiểm chứng) có căn cứ lớn, kho tiếp vận của địch (quân đội Bắc Việt)
trên núi Cơ Rốc hướng tây nam căn cứ Khe Sanh. Phi vụ B-52 Arc Light được gọi đến
thả bom, kết qủa gây nhiều tiếng nổ phụ liên tục trong hai tiếng đồng hồ.
(b) Tin tức tình báo lấy
được từ căn cứ điạ BA 607, rất rõ ràng về các hoạt động của địch cho phi vụ
B-52 thả bom, kết qủa gây nhiều tiếng nổ phụ, tiêu hủy một chiến xa lội nước
PT-76, cắt đường 548 ra nhiều đoạn (bị hư hại).
(c) Nhiều lá thư do bạn
bè, người thân ở miền bắc gửi cho bộ đội Bắc Việt lấy được (tịch thâu) trong
khu vực tam biên, trong khu vực đóng quân của một trung đoàn Bắc Việt. Những lá
thư này cho biết tình trạng sinh hoạt nơi miền Bắc Việt Nam.
(d) Nhiều hoạt động xâm
nhập người, vũ khí của địch, khu vực trú quân cũ lẫn mới cho cấp đại đội /
trung đoàn, đường mòn lún xuống do được xử dụng nhiều, khu vực nghỉ ngơi, dưỡng
quân, trạm đậu xe, bị các toán biệt kích khám phá, chụp ảnh.
(e) Khám phá nhiều đường
dây điện thoại liên lạc của địch.
(f) Tin tức quan trọng
thâu thập được, xe cộ, chiến xa, và xe lội nước APC quân đội Bắc Việt di chuyển
trên những đường mòn lớn đủ rộng cho xe cộ.
(g) Quân đội Bắc Việt xử
dụng xe chở quân qua đất Lào được xác nhận lần đầu tiên do một toán biệt kích
NKT trong hành quân Prairie Fire hoạt động trong khu vực tam biên. Địch di chuyển
trên đường 96 / 110 trong tháng Hai.
(h) Tin tức do toán biệt
kích hoạt động trong khu vực tam biên, được gọi là SLAM (Lùng, Xác Định, Hủy Diệt,
Theo Dõi). Trong tháng Mười Một, căn cứ điạ 613 được khai thác theo quan niệm
SLAM VII, các toán biệt kích xâm nhập vào khu vực, dò tìm dấu vết của địch, cho
đơn vị lớn, đại đội Khai Thác (Hatchet Force) và không quân chiến thuật (TAC
Air) tấn công. Kết qủa phá hủy binh trạm, khu đóng quân, khu chứa xe, và nhà
kho của địch. Điều này được tù binh bắt được xác nhận, tiếp theo là đợt Arc
Light chin (9) phi vụ B-52 thả bom trên căn cứ điạ 613.
(6) Các Hoạt Động Chương
Trình Igloo White (Muscle Shoals):
Danh hiệu Muscle Shoals
được thay bằng Igloo White trong năm. Sĩ quan trách nhiệm chương trình vẫn tiếp
tục theo dõi, thâu thập tin tức trong khu vực hoạt động. (Máy điện tử dò thám mức
độ chuyển quân, thả từ phi cơ, hoặc do quân biệt kích đem vào đặt).
b. Hành Quân Daniel
Boon:
(1) Các Bản Báo Cáo Tin
Tức Tình Báo (IIRs):
(a) Trong năm, 418 bản
báo cáo IIRs về các hoạt động của địch, điạ thế trong khu vực hành quân Daniel
Boone, so với chu kỳ cuối sáu tháng của năm 1967 chỉ có 155 bản.
(b) Trong văn thư ngày
13 tháng Hai 1968, tư lệnh cơ quan MACV ra lệnh cho hành quân Daniel Boone trách
nhiệm thêm các chuyến hành quân nội điạ. Kết qủa các chuyến hành quân vượt biên
sang đất Miên lên đến cao điểm trong tháng Hai, xuống thấp trong tháng Ba, xuống
thật thấp từ tháng Tư cho hết tháng Sáu. Các chuyến hành quân trong nội điạ tiếp
tục cho đến hết tháng Chín, lúc đó hành quân Daniel Boone hoạt động bình thường
trở lại. Không có bản báo cáo cho các chuyến hành quân nội điạ.
(2) Nghiên Cứu, Phỏng Đoán,
Thêm Vào:
(a) Trong tháng Giêng, ủy
ban VESUVIUS được thành lập với phòng 2 cơ quan MACV để kết hợp mục tiêu thành
gói (packet), lấy tin tức tình báo chứng minh quân đội Bắc Việt / VC được
Prince Sihanouk cho phép xử dụng đất Cambodia. Hai gói mục tiêu được đưa ra
trong tháng Hai, ngoài ra còn có thêm sáu gói mục tiêu khác. Chương trình
VESUVIUS giảm đi khi được lệnh hành quân nội điạ.
(b) Công việc nghiên cứu
sự phân bố dân chúng ở Cambodia, nhấn mạnh trong khu vực hành quân Daniel Boone
được thực hiện.
(c) Việc nghiên cứu các
tổ chức dân tộc ở Cambodia và Nam Việt Nam hoàn tất.
(d) Đường dây liên lạc,
tiếp vận (LOC) trên đất Cambodia được nghiên cứu để biết những con đường chính,
xử dụng yểm trợ tiếp vận cho quân Bắc Việt / VC. Một buổi thuyết trình về LOC
cho Ủy Ban Graham.
(e) Phần tình báo thêm
vào trong hành quân Daniel Boone được soạn thảo.
(f) Soạn thảo chương trình
Thâu Thập Black Beard (tin tức tình báo).
(3) Chọn Lọc Mục Tiêu và
Tiến Hành:
(a) Tổng cộng 300 mục
tiêu được chọn, tiến hành trong suốt năm.
(b) Một lệnh hành quân
mới nhận được trong tháng Mười Hai, bỏ bớt những giới hạn, gia tăng tầm hoạt động
cho hành quân Daniel Boone. Chương trình hành quân mới được soạn thảo dựa trên
lệnh hành quân mới này.
(4) Đặt Máy Nghe Lén Điện
Thoại:
Bốn chuyến hành quân xâm
nhập, đặt máy nghe lén điện thoại [bị xóa], hai
chuyến được ghi nhận có kết qủa tốt.
(5) Những Tin Tức Tình
Báo Sản Xuất Trong Năm 1968:
(a)
Tìm ra 807 mục tiêu.
(b)
Khám phá 272 khu vực đóng quân bỏ hoang hoặc mới, căn cứ binh trạm.
(c)
Tìm thấy 27 đường dây điện thoại.
(d)
Bắt sống 2 tù binh, cung cấp nhiều tin tức giá trị.
(e)
Báo cáo trông thấy địch quân 272 lần.
(f) Chụp ảnh đường, đường
mòn, cầu, nhà kho, khu vực đóng quân, căn cứ của địch và điạ hình khu vực.
c. Chương Trình
Plowman:
(1) (bị xóa)
(a)
Hậu qủa việc dùng phi cơ thả thủy lôi trên đường sông.
(b)
Hậu qủa của các trận oanh kích.
(c)
Phản ứng của dân chúng, chính quyền miền Bắc Việt Nam về việc giới hạn thả bom
và thương thuyết (cho hòa bình).
(d)
Tình trạng kinh tế.
(e)
Lệnh hành quân.
(f) Tình trạng hệ thống,
đường tiếp vận (quân đội Bắc Việt).
(2) Các bản báo cáo tình
báo (IIRs): Dựa trên những lời khai của tù binh (có thể là người dân ng đánh cá
bị bắt cóc trong hải phận miền Bắc), 199 bản báo cáo IIRs đã được viết, bao gồm
những chủ đề sau đây:
(a)
Hậu qủa của các trận pháo kích từ biển vào.
(b) Lực lượng bán quân
sự.
(3) Nghiên cứu, Phỏng đoán,
Phụ thêm
(a) Những việc nghiên cứu,
báo cáo gia tăng và hỏa lực phòng thủ chính xác của Bắc Việt vào các chuyến hành
quân Plowman.
(b) Việc nghiên cứu kiến
trúc, khả năng, chiến thuật các ghe (ngụy trang) tầu đánh cá miền Bắc được hoàn
tất.
(c) Việc thám sát đường
sông ở Cambodia được xem xét và phổ biến.
(4) Chọn lựa mục tiêu và
tiến hành: Tổng cộng 50 mục tiêu được chọn lọc, trong đó 20 mục tiêu được xúc
tiến yểm trợ chương trình CADO (Biệt Hải). Trong đó năm mục tiêu xử dụng quan
niệm mới (bị xóa). Bẩy trong số 20 mục tiêu được
chấp thuận, trước khi chương trình chấm dứt ngày 1 tháng Mười Một. Năm mục tiêu
xử dụng quan niệm mới không được thực hiện do chương trình kết thúc.
(5) Những trở ngại: Tổng
cộng 352 bản báo cáo IIRs và Spot được phổ biến trong năm 1968. Số lượng này xuống
từ 463 năm 1967. Con số đi xuống do giới hạn hành quân, hậu qủa trong năm (5)
tháng (Tết Mậu Thân, chuyển hướng phần lớn các chuyến hành quân về nội điạ miền
Nam). Chỉ có các chuyến “hỏi thăm ngoài biển” được cho phép từ tháng Tư qua tháng
Sáu, không có chuyến hành quân nào khác được phép sau ngày 1 tháng Mười Một.
d. Chương trình
Timberwork
(1) Các bản báo cáo
Spot: Tin tức nhận được từ phần còn lại [bị xóa]
nơi miền Bắc Việt Nam được thẩm định, phân phối đi các cơ quan tình báo. Kết qủa
việc thẩm định và nghiên cứu đưa ra [bị xóa] và
phòng 2 cơ quan MACV J-2, các toán biệt hải đã hoàn thành nhiệm vụ. các bản báo
cáo Spot ngưng lại trong tháng Bẩy 1968, nhân viên chuyển qua ban “đánh lạc hướng”.
(2) Báo cáo tình báo
IIRs: Tin tức từ các toán biệt kích STRATA đem về được thẩm định, gửi đi trong
suốt năm. Mười một bản báo cáo IIRs được hoàn tất trong thời gian từ tháng Ba
(các toán biệt kích STRATA bắt đầu hoạt động) cho đến lúc ngừng hoạt động ngày
1 tháng Mười Một.
(3) Nghiên cứu, Phỏng đoán,
Phụ thêm:
(a) Năm lãnh vực cho điệp
viên đơn phương (Singleton Agent) hoạt động được thực hiện.
(b) Tổng hợp tất cả tin
tức tình báo về miền Bắc Việt Nam cho vào kho lưu trữ (Database) để xử dụng cho
các hoạt động trong tương lai.
(c) Yểm trợ chương trình
“rút lui” (standdown) các toán biệt kích nằm vùng dài hạn ra khỏi miền Bắc bằng
đường bộ được cung cấp.
(4) Chọn lựa mục tiêu và
tiến hành:
(a) Trong năm, 100 mục
tiêu đủ loại được chọn lọc và tiến hành.
(b) Việc nghiên cứu được
thực hiện, thâu thập tin tức trong việc chọn lựa mục tiêu cho các toán biệt kích
STRATA xâm nhập.
(c) Các mục tiêu được phát
triển, thâu thập tin tức cho chương trình Điệp Viên Đơn Phương (Singleton
Agent).
(d) Phát triển quan niệm
Toán Tình Báo Chiến Lược (SIT) và lựa chọn mục tiêu thích hợp. Do việc “rút
lui”, chưa có toán nào được lệnh xâm nhập.
(e) Tin tức tình báo yểm
trợ quan niệm Toán Ghi Nhận (Notation Team) trong 18 khu vực trong miền Bắc Việt
Nam.
(f) Với sự đình trệ việc
chống lại chính quyền miền Bắc, mọi sự yểm trợ chuyển hướng sang Lào và
Cambodia, mọi tin tức tình báo phối hợp với ban Timberwork.
e. Tình Báo Không Quân:
(1) Ban tình báo Không
Quân quản lý tất cả các loại phi cơ, phòng không, hỏa tiễn SAM, lệnh hành quân
trên đất Lào, Bắc Việt và Cambodia cho đơn vị SOG và các bộ phận trực thuộc xử
dụng.
(2) Các bản báo cáo
Spot: Mặc dầu những bản báo cáo này không thường đòi hỏi từ ban tình báo Không
Quân, chỉ có ba bản báo cáo Spot về súng bắn từ dưới đất trong các phi vụ yểm
trợ các toán biệt kích SOG/NKT.
(3) Nghiên cứu, Phỏng đoán,
Thêm vào: Bản nghiên cứu lệnh hành quân Không Quân được cung cấp để yểm trợ cho
các chương trình PF, DB, Plowman và Timberwork hoạt động. Ngoài ra các việc
nghiên cứu, trình bầy hình ảnh được cung cấp cho chương trình 30 (OP-30) thảo kế
hoạch hoạt động.
f. Các hoạt động phân tích
không ảnh:
(1) Nghiên cứu mục tiêu:
(a) Trong năm, 1050 công
việc nghiên cứu mục tiêu được hoàn tất để yểm trợ các chương trình PF, DB,
Plowman, và Timberwork, gần gấp đôi số lượng năm 1967.
(b) Việc nghiên cứu loại
mục tiêu thay đổi từ cao độ chụp không ảnh, phóng đại 1:50.000 cùng với phần phân
tích mục tiêu. Không ảnh chụp từ độ cao vẫn tiếp tục được xử dụng, và việc nghiên
cứu mục tiêu được soạn thảo.
(2) Chọn lựa mục tiêu và
tiến hành: Với quan niệm Ủy Ban Chọn Lựa Mục Tiêu, ban Giải Đoán Hình Ảnh (ngoài
không ảnh còn có hình ảnh do các toán biệt kích xâm nhập, chụp ảnh đem về) xử dụng
khả năng phân tích, dụng cụ trong việc lựa chọn, soạn thảo mục tiêu. Những mục
tiêu không xứng đáng “được” loại bỏ, sự phối hợp (cho mục tiêu) được di chuyến
đến vị trí thích hợp, các bãi đáp, lộ trình di chuyển cho các toán biệt kích được
chọn trước. Ban Giải Đoán Không Ảnh liên quan nhiều đến việc soạn thảo mục tiêu.
(3) Các chương trình: Để
bảo đảm các tấm ảnh chụp trên bộ (biệt kích) chính xác, tin tưởng được, ban Giải
Đoán Không Ảnh xúc tiến một chương trình làm tiêu chuẩn cho mọi hoạt động. Lựa
chọn máy móc dụng cụ, cách xử dụng, và hướng dẫn kỹ thuật rửa / tráng phim. Thời
điểm đó loại phim chụp ảnh Pen EES-2, Ashai Pentax ống kính 55m, 200m được chọn
để xử dụng.
(4) Dịch vụ thư viện:
Thư viện hiện chứa khoảng 286.000 bộ (đơn vị đo lường chiều dài) phimvà hơn
30.000 bộ được xử lý bởi ban Giải Đoán Không Ảnh hàng tuần. Số lượng tăng lên
nhiều so với năm 1967 chỉ có 100.000 và 10.000 mỗi tuần.
(5) Trở ngại: Dưới luật
JDT 1967 (quân nhân Hoa Kỳ phục vụ tại Việt Nam), 10 quân nhân và một [bị xóa] được có (cho phép số nhân viên phục vụ trong
ban). Con số này không đủ để thỏa mãn nhu cầu làm việc. Văn thư yêu cầu (thêm
nhân viên) được gửi đi.
g. Các hoạt động an
ninh: Dưới đây là liệt kê các hoạt động chính của phòng an ninh trong năm 1968:
(1) Các lệnh đã được soạn:
(a)
MACSOG lệnh 380-7 với phần thay đổi, về việc: Về việc: An Ninh Quân Đội, Xử dụng
tin tức của đơn vị MACSOG.
(b)
MACV văn thư 380-7, về việc: Xử dụng tin tức của MACSOG.
(c) MACSOG lệnh 380-5,
về việc: An Ninh
(2) Di chuyển bộ chỉ
huy MACSOG từ khu MACV II đén MACV I, đã thảo luận và thi hành.
(3) Hồ sơ nhân viên:
Ban an ninh tiếp tục lưu trữ hồ sơ nhân viên. Cho đến ngày 30 tháng Mười Hai, có
tất cả 7.870 hồ sơ.
(4) Hồ sơ cá nhân: Ban
an ninh lưu trữ hồ sơ cá nhân. Trong năm 1968, tất cà cấp chỉ huy trực thuộc đơn
vị SOG phải lưu trữ hồ sơ tất cả nhân viên đối tác (Việt Nam). Hồ sơ gốc lư trữ
tại bộ chỉ huy đơn vị SOG, các sở chỉ huy giữ phó bản (copy).
(5) (Bị xóa)
(6) Phòng họp đơn vị
MACSOG: ban an ninh lập thủ tục an ninh cho phòng họp tối mật trong cơ sở #2 và
“dọn dẹp” trước mỗi buổi họp.
(7) Điều tra quân tình
nguyện người Thượng.
(a) Hệ thống điều tra lý
lịch cho quân biệt kích Thượng được hoàn toàn đổi mới. Tin tức ghi nhận đầy đủ,
và thời gian rút ngắn từ 2 – 4 tháng xuống còn 3 - 4 tuần lễ.
(b) Điều tra an ninh
cho tất cả quân biệt kích người Thượng phục vụ đơn vị SOG đang được hoàn tất.
Hiện đã hoàn tất 2.800 hồ sơ.
(8) Danh sách in ra từ
máy IBM (computer). Việc xử dụng máy điện toán IBM rút ngắn thời gian xuống từ
7 đến 10 ngày.
(9) Dịch vụ máy “Dò Sự
Thật” (Polygraph): Ban an ninh phối hợp với phòng 2 MACV J-2 và đơn vị 525 An
Ninh Quân Đội cải tiến việc xử dụng máy “Dò Sự Thật”. Đơn vị MACSOG được sắp xếp
dịch vụ này.
(10) Liên lạc: Những
chuyến thăm viếng các cơ quan an ninh trong khu vực Saigon vẫn tiếp tục và sự
liên hệ với các cơ quan khác trong miền Nam Việt Nam được thiết lập.
PHỤ
BẢN III
CÁC
HOẠT ĐỘNG CHƯƠNG TRÌNH FOOTBOY
Phụ bản III có các bản tóm luợc năm 1968, lịch sử các
hoạt động của chương trình Footboy.
PHẦN
1 – CÁC HOẠT ĐỘNG BIỆT HẢI
PLOWMAN
1. TỔNG QUÁT
(a) (bị xóa)
b. Do sự giới hạn, những
giai đoạn được lấy ra để soạn thảo và thi hành việc huấn luyện trong miền nam
loại hành quân biệt hải. Ngay lúc bắt đầu mùa mưa trongvùng đông nam Á châu,
trong tháng Năm 1968, chương trình Bifrost bắt đầu ở Quân Đoàn I. Chương trình
Bifrost được phác họa cho các hoạt động từ biển vào, thực tập tấn công các mục
tiêu thật (căn cứ) của Việt Cộng. Chương trình Bifrost tiếp tục suốt năm.
c. Tại thời điểm mưa nhiều
gây lụt lội ngoài miền trung (quân đoàn I), hai toán biệt hải được đưa vào Phan
Thiết (quân đoàn II) bắt đầu từ ngày 1 tháng Mười Một 1968 cho chương trình
Dewey Rifle. Chương trình Dewey Rifle tương tự như Bifrost, tiếp tục cho phần còn
lại trong năm.
2. NHIỆM VỤ
(Phần bị xóa)
3. TỔ CHỨC
Các hoạt động Biển
trong năm 1968 do Đoàn Biệt Hải (mật danh thay cho Toán Cố Vấn Hải Quân NAD ở Đà
Nẵng) phối hợp với sở Phòng Vệ Duyên Hải (CSS) trực thuộc Nha Kỹ Thuật đảm trách.
Ban Hành Quân Biệt Hải, chương trình 31 (OP-31) nằm trong bộ chỉ huy Đoàn Nghiên
Cứu Quan Sát (SOG). Ban này có hai thay đổi lớn trong năm 1968.
a. Toán Cố Vấn Hải Quân
(NAD) ở Đà Nẵng, ban Hành Quân Biển được chấp thuận có 14 sĩ quan, 24 binh sĩ,
và 14 người Philipine. Không có vấn đề gì dưới sự chấp thuận này. Một toán 65
người trong toán Yểm Trợ Lưu Động tạm thời biệt phái làm công việc bảo trì loại
tầu chiến chạy nhanh (PTF). Trong tháng Chín, MACSOG được lệnh bỏ bớt số nhân
viên thặng dư không theo bảng cấp số ấn định JTD. Theo lệnh, phải bỏ bớt 26 người
trong toán yểm trợ lưu động, giảm phân nửa số cố vấn SEAL (người nhái Hải Quân
Hoa Kỳ) và TQLC/HK và sở Phòng Vệ Duyên Hải phải gia tăng đảm trách việc bảo trì
các chiến đỉnh PTF. Chuyện giảm quân này kéo dài đến cuối năm 1968.
b. Ban Nghiên Cứu Biển
(Biệt Hải), vẫn giữ nguyên bốn sĩ quan và hai binh sĩ.
4. CHƯƠNG TRÌNH PLOWMAN
a.