LỜI GIỚI THIỆU
Đây là một phần trong
quân sử, những cố gắng của Hoa Kỳ ở Việt Nam Cộng Hòa. Việc giải tán đơn vị
SOG (Special Operations Group), thành lập toán cố vấn STDAT-158 (Strategic Technical Directorate cho Nha Kỹ Thuật, đánh dấu sự chuyển tiếp
các hoạt động, hành quân xâm nhập, thâu thập tin tức tình báo chiến lược của đơn
vị SOG sang giai đoạn cố vấn cho Nha Kỹ Thuật (STDAT). Toán cố vấn này phải làm
việc gấp rút đua với thời gian vì cũng sẽ bị giải tán sau đó. Họ phải tận lực
giúp Nha Kỹ Thuật có thể tự túc đảm nhận nhiệm vụ Quân Lực VNCH trao phó.
Dưới áp lực trận tấn công
Mùa Hè Đỏ Lửa tháng Tư năm 1972, toán cố vấn STDAT cũng phải giảm bớt nhân viên,
quân số theo sự gia tăng chương trình Việt Nam Hóa. Nha Kỹ Thuật phải tiếp thu
sự độc lập, đảm nhận hoàn toàn vai trò điều hành các hoạt động của đơn vị chống
lại sự xâm lăng của quân đội Bắc Việt.
Theo chân các cố vấn
STDAT ở Quản Lợi (CCS, Bộ Chỉ Huy phương Nam), Kontum (CCC, Bộ Chỉ Huy Trung),
và Huế (CCN, Bộ Chỉ Huy phương Bắc), cùng với các quân nhân Nha Kỹ Thuật (Lôi Hổ)
đã góp phần trong việc chống lại sự tấn công của quân đội Bắc Việt, và tưởng niệm
các chiến sĩ đã hy sinh trong phi vụ Echo, Mike Two, tôi cùng với các quân nhân
trong ban chỉ huy ngả nón chào.
Robert W. Hill
Đại
Tá, Hoa Kỳ
Chỉ Huy Trưởng/Cố Vấn
Trưởng
TƯỞNG
NIỆM
Tập tài liệu về Toán Cố
Vấn Nha Kỹ Thuật STDAT-158 dành riêng tưởng niệm các chiến hữu đã hy sinh trong
phi vụ Echo Mike Two, bị nạn gần Pleiku, Việt Nam Cộng Hòa ngày 5 tháng Sáu năm
1972.
Trung Tá RONNIE A. MENDOZA, USA MEDTC
Trung Tá ANDREW F. UNDERWOOD, USA LSAD
Thiếu Tá CALVIN T. GORE, USA GP-11AE
Thiếu Tá NICOLAS QUINONES-BORRAS, USA SURGEON (Bác Sĩ)
Đại Úy CHARLIE L. FLOTT, USA TF2AE
Đại Úy
JAMES F. HOLLIS, USA STDAT-30
Đại Úy
WALTER S. MULLEN, USA LSAD
Trung Úy AMDEE CHAPMAN, Jr., USA TF2AE
Trung Sĩ Nhất THOMAS M. LEJEUNE, USA LSAD
Trung Sĩ KENNETH L. BARNETT, USA TF1AE
Trung
Sĩ MICHAEL L. HUTSON, USA LSAD
(MEDTC:
Medical Equipment Delivery Team, Cambodia)
LỜI CẢM TẠ
Tập tài liệu này được
Thiếu Tá D.H. Campbell, USA góp lại, biên soạn với sự trợ giúp của Thiếu Tá
M.E. Ekman, USA, Đại Úy H. A. Lawson, USA và S.H. Baily, USA. Sự cố vấn, khuyến
khích của hai vị Chỉ Huy Trưởng/Cố Vấn Trưởng kế tiếp nhau đã làm cho tập tài
liệu này được hoàn thiện.
D.H.C.
CÁC
NHÂN VIÊN CHÍNH YẾU
VAI TRÒ (nhiệm vụ) THỜI GIAN NHÂN VIÊN
1.
Chỉ Huy/Cố Vấn Trưởng 1/5/72
– 30/11/72 Đ/Tá D.R. Preston, USA
1/12/72
– 12/3/73 Đ/Tá R.W. Hill, USA
a.
Chỉ Huy Phó/Cố Vấn Phó /5/72
– 30/11/72 Đ/Tá R.W. Hill, USA
b.
Sĩ Quan Điều Hành (Hành Quân)1/5/72 –
2/9/72 Tr/Tá W.E. Allen, USA
3/9/72
– 30/11/72 Tr/Tá W.E. Whelan, USA
1/12/72
– 12/3/73 Th/Tá R.B. Cole, USA
c.
Phụ Tá Đặc Biệt 1/5/72
– 12/3/73 Ông G.D. French
d.
Sĩ Quan Tiếp Vận (Yểm Trợ) 1/5/72
– 14/11/72 Đ/Úy J.L. Keys, USA
e.
Trung Sĩ Trưởng (Thường Vụ)1/5/72 –
4/8/72 r/Sĩ Nhất A.W. Akridge,
9/9/72
– 23/10/72 Tr/Sĩ Nhất J. Pearce,
USA
2.
Trưởng Phòng Nhân Viên 1/5/72
– 23/11/72 Th/Tá A.L. Hittner, USA
3.
Trưởng Phòng Tình Báo (2) 1/5/72
– 18/11/72 Th/Tá R.S. Mason, USA
19/11/72
– 4/3/73 Th/Tá W.P. Lang, USA
4.
Cố Vấn Trưởng (HQ/HL) 1/5/72
– 18/8/72 Tr/Tá M.K. Patton, USA
19/8/72
– 30/11/72 Th/Tá B.E. Dishman, USA
5.
Cố Vấn Trưởng (HQ/TB) 1/12/72
– 4/3/73 Tr/Tá C. Johnson, USA
a.
Cố Vấn Hành Quân 1/5/72
– 19/7/72 Tr/Tá H.E. Johnson, USA
20/7/72
– 18/8/72 Th/Tá B.E. Dishman, USA
19/8/72
– 12/3/73 Th/Tá D.H. Campbell, USA
b.
Cố Vấn Biệt Hải 1/5/72
– 10/11/72 Th/Tá (HQ) C.E. Dorman,
USN
c.
Cố Vấn Không Yểm 1/5/72
– 20/11/72 Th/Tá D.D. Patton, USAF
21/11/72
– 12/3/73 Th/Tá F.E. Sparks, USAF
d.
Cố Vấn Kế Hoạch 1/5/72
– 24/7/72 Th/Tá B.E. Dishman, USA
25/7/72
– 30/11/72 Th/Tá D.H. Campbell, USA
1/12/72
– 12/3/73 Th/Tá M.E. Ekman, USA
e. Cố Vấn Tâm Lý Chiến 1/5/72 – 28/8/72 Th/Tá J.D. Skidmore, USA
e. Cố Vấn Tâm Lý Chiến 1/5/72 – 28/8/72 Th/Tá J.D. Skidmore, USA
f.
Cố Vấn Huấn Luyện 1/5/72
– 5/6/72 Đ/Úy J.F. Hollis, USA
18/6/72
– 30/11/72 Đ/Úy H.A. Lawson, USA
g.
Sĩ Quan Liên Lạc 1/12/72
– 7/2/73 Đ/Úy H.A. Lawson, USA
1/12/72
– 28/12/72 Đ/Úy J.S. Jenkins, USA
6.
Cố Vấn Trưởng Tiếp Vận 1/5/72
– 25/11/72 Tr/Tá O.T. Hrncir, USA
26/11/72
– 12/3/73 Tr/Tá W.E. Whelan, USA
7.
Trưởng Ban Tiếp Vận 1/5/72
– 4/3/73 Th/Tá E.M. Nikazy, USA
8.
Cố Vấn Truyền Tin (Liên Lạc) 1/5/72
– 30/11/72 Th/Tá E.N. Dunn, USA
9.Cố Vấn Tài Chánh (Ngân Khoản)1/11/72–10/11/72 Th/Tá(HQ)G.J. Muller, USN
11/11/72
– 13/3/73 Th/Tá(HQ) P.J. Hephner
10.
Cố Vấn Trưởng LSAD 1/5/72
– 5/6/72 Tr/Tá A.E. Underwood,
USA
6/6/72
– 12/8/72 Th/Tá C. Ferns, USA
13/8/72
– 30/11/72 Th/tá M.E. Ekman, USA
11.
Cố Vấn Trưởng SMSAD1/5/72 –
10/7/72 Th/Tá A.H. Blackstone,
USA
11/7/72
– 30/11/72 Tr/Tá C. Johnson, USA
12.
Cố Vấn Trưởng TCAD 1/5/72
– 20/7/72 Th/Tá M. Darling, USA
21/7/72
– 15/11/72 Th/Tá J. Hamilton, USA
13.
Chỉ Huy CRF 1/8/72
– 31/10/72 Đ/Úy (HQ) J.E. Klinger, USN
14.
Chỉ Huy SMF 1/8/72
– 12/3/73 Th/Tá E.M. Roper, USA
15.
Cố Vấn Trưởng Đoàn 68 AE 1/5/72 –
30/9/72 Th/Tá M.D. Eiland, USA
1/10/72 –
25/11/72 Th/Tá J. Maisano, USA
DANH
HIỆU VIẾT TẮT
ARC LIGHT Nickname
for B-52 Strategic Bomber Strikes
ARVN Army
of the Republic of Vietnam
AE Advisory
Elements
CRF Coastal
Recovery Force
CSS Coastal
Security Services
DMZ Demilitarized
Zone
DRV Democratic
Republic of Vietnam
HOUSE 50 Logistical
Support Center located at Number 50 Plantation Road
JGS Joint
General Staff/Republic of Vietnam Armed Forces
LS Liaison
Service
LSAD Liaison
Service Advisory Detachment
MR Military
Region
MACV Military
Assistance Command, Vietnam
MACDO Director
of Operations, Military Assistance Command
MACDI Director
of Intelligence, Military Assistance Command
NDP Night
Defensive Position
NVA North
Vietnamese Army
RT Reconnaissance
Team
STD Strategic
Technical Directorate
STDAT-158 Strategic
Technical Directorate Assistance Team-158
SB Special Branch
SCU Special
Commando Unit
SMS Special
Mission Service
SMSAD Special
Mission Service Advisory Detachment
SMF Special
Mission Force
SES Special
Exploitation Service
SOG Studies
and Observation Group
STS Strategic
Technical Service
STT Special
Training Team
SCT Sea
Commando Team
SEAL’s US
Navy Sea Air Land Team
TAOR Tactical
Area of Operational Responsibility
TC Training
Center
TCAD Training
Center Advisory Detachment
UW Unconventional
Warfare
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
I. NHA KỸ
THUẬT (STD)
1. NHIỆM VỤ
Chỉ huy, điều
hành, xử dụng các đơn vị, nhân viên trực thuộc trong các hoạt động, hành quân đặc biệt, thực hiện chiến tranh ngoại lệ theo
lệnh Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH (JGS/RVNAF).
2. NGUYÊN
NHÂN
Do sự gia tăng
các hoạt động của công sản trong lãnh thổ VNCH sau hiệp định Geneve năm 1954. Một
dịch vụ (cơ quan, đơn vị) bí mật, đặc biệt được thành lập năm 1958 dưới quyền điều
hành trực tiếp của Tổng Thống VNCH. Nhiệm vụ của cơ quan bí mật này, thâu thập
tin tức tình báo về các hoạt động của cộng sản nơi hướng bắc vùng phi quân sự
(DMZ), và dò tìm những mục tiêu chiến lược của đối phương để tiêu hủy, trong
trường hợp có cuộc xung đột giữa hai miền nam, bắc. Đến năm 1963, cơ quan bí mật
này đổi danh hiệu Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt.
Đơn vị tiền
thân của Nha Kỹ Thuật được tổ chức nằm trong “Phòng Đặc Biệt (SB)” trực thuộc Lực
Lượng Đặc Biệt. Phòng Đặc Biệt bao gồm hai “Ban (Sections)”. Một ban (quốc nội)
điều hành mấy “Căn Cứ (Sites)” trong nội điạ miền nam Việt Nam. Những căn cứ này
ở Saigon đảm nhiệm các chuyển thả dù quân biệt kích xâm nhập, tiếp tế ra miền Bắc,
ở Huế lo các chuyến xâm nhập qua vùng phi quân sự (DMZ), và ở Đà Nẵng cho các
hoạt động Biệt Hải. Ban thứ hai đảm trách các “Văn Phòng” ở ngoại quốc: Vạn Tượng
(Vientiane, Lào), Savannakhet (Lào), Bangkok (Thái Lan), và Paris (Pháp). Phòng
“Quốc Ngoại” cần nhiều ngân khoản, huấn luyện điệp viên… cuối cùng phải loại bỏ.
Đến năm 1964, tình hình
miền Nam Việt Nam trở nên rối ren, phòng Đặc Biệt không thể chu toàn nhu cầu
gia tăng loại “Hành Quân Đặc Biệt”. Cũng vì thế phòng Đặc Biệt tái tổ chức thành
một đơn vị độc lập, ra khỏi Lực Lượng Đặc Biệt. Trong tháng Tư năm 1964, phòng
Đặc Biệt chính thức trở nên Dịch Vụ (Sở) Khai Thác Đặc Biệt (SES), đặt dưới quyền
chỉ huy của bộ Tổng Tham Mưu. Song song với việc thành lập SES, quân đội Hoa Kỳ
thành lập đơn vị Đoàn Nghiên Cứu Quan Sát (SOG). Đơn vị SOG có nhiệm vụ yểm trợ
đơn vị SES thực hiện các loại hành quân đặc biệt trong chiến tranh ngoại lệ.
Đơn vị SES được tổ chức
có bộ chỉ huy trong Saigon, sở Phòng Vệ Duyên Hải (CSS) ngoài Đà Nẵng, căn cứ
huấn luyện biệt kích ở Long Thành, và một đơn vị Không Quân biệt phái. Nhiều
phi hành đoàn làm việc với Đệ Nhất phi đoàn (First Flight) của đơn vị SOG ở Nha
Trang.
Trong những tháng cuối
năm 1964, quân đội Bắc Việt gia tăng mức độ xâm nhập người, vũ khí, đồ trang bị,
tiếp vận vào miền nam trên đường mòn HCM. Để chống lại, đơn vị SES cũng gia tăng
trong đầu năm 1965. Từ lúc mới thành lập (Tháng 4/1964), sở Liên Lạc (LS –
Liaison Service) được sự chấp thuận của bộ Tổng Tham Mưu, tổ chức các chuyến xâm
nhập dò thám trên đất Lào và Cambodia. Sở Liên Lạc được đặt dưới sự chỉ huy, điều
hành của sở Khai Thác (SES) trong tháng Giêng 1965. Sau đó sở Khai Thác đổi tên
thành sở Kỹ Thuật (STS). Lần đầu tiên, một đơn vị được bộ Tổng Tham Mưu trao trách
nhiệm tổ chức các cuộc hành quân loại chiến tranh ngoại lệ, chống lại sự xâm nhập
từ miền bắc.
Đến tháng Chín năm
1967, sở Kỹ Thuật đã phát triển nhanh chóng nên được nâng cấp thành Nha Kỹ Thuật
(STD). Vị Giám Đốc (cấp chỉ huy) Nha Kỹ Thuật làm việc, nhận lệnh trực tiếp từ
Tổng Tham Mưu Trưởng QL\VNCH. Lúc bấy giờ, Nha Kỹ Thuật bao gồm các đơn vị trực
thuộc: sở Liên Lạc, sở Phòng Vệ Duyên Hải, lực lượng Đặc Nhiệm (quân biệt kích),
trung tâm huấn luyện, và một ban Liên Lạc, Phối Hợp (với đơn vị SOG). Cũng theo
đà phát triển, sở Tâm Lý Chiến (đài Gươm Thiêng Ái Quốc, Cờ Đỏ…) hoạt động tích
cực.
Vào giữa năm 1970, liên
đoàn 5 LLĐB/HK về Mỹ, Nha Kỹ Thuật lấy thêm quân LLĐB/VN (LLĐB/VN giải tán), thành
lập sở Công Tác (SMS).
3. TỔ CHỨC
Nha Kỹ Thuật được tổ chức
với hai đơn vị nồng cốt, sở Liên Lạc và sở Công Tác. Sở Liên Lạc được trao nhiệm
vụ tổ chức các cuộc hành quân xâm nhập vào đất Cambodia (Miên) và miền nam Việt
Nam từ khu vực Tam Biên (Việt, Miên, Lào) trở xuống. Sở Công Tác đảm trách các
hoạt động trên đất Lào và khu vực phiá bắc, nam Việt Nam. Ngoài nhiệm vụ thâu
thập tin tức tình báo, các toán biệt kích sở Liên Lạc, Công Tác (Lôi Hổ) được
huấn luyện kỹ thuật gắn máy nghe lén điện thoại, bắt sống tù binh, đặt mìn trên
đường mòn HCM, điều khiển phi cơ, pháo binh tác xạ, oanh kích các mục tiêu quan
trọng của địch.
Sở Liên Lạc được tổ chức
với ba (3) chiến đoàn xung kích cùng với các bộ phận yểm trợ. Khả năng của sở
Liên Lạc yếu đi kể từ tháng Năm 1972 trở đi (Người Hoa Kỳ rút quân, đơn vị SOG
giải tán). Đơn vị biệt kích người dân tộc (Thượng - SCU), các đại đội Thám Sát,
An Ninh giải tán (người Hoa Kỳ không trả lương nữa).
Sở Công Tác được cho phép
thành lập với năm (5) đoàn công tác, nhưng chỉ thực hiện được bốn (4). Các toán
biệt kích sở Công Tác được tổ chức tương tự như các toán ‘A’ Lực Lượng Đặc Biệt
Hoa Kỳ, để tổ chức “Chiến Tranh Ngoại Lệ” nơi miền Bắc và trên đất Lào.
Nha Kỹ Thuật đón nhận
thêm hai đơn vị “Đặc Biệt”, đoàn 11 ngoài Đà Nẵng và đoàn 68 trong Saigon. Đoàn
11 có chin (9) toán biệt kích, mỗi toán 12 quân nhân STRATA (Do Thám Ngắn Hạn,
Tìm Mục Tiêu). Các toán biệt kích STRATA được huấn luyện do thám đường mòn, gắn
máy nghe lén điện thoại, thám sát căn cứ, tìm mục tiêu cho không lực Hoa Kỳ
oanh kích (các toán biệt kích STRATA thường xâm nhập vào miền bắc lên đến vĩ
tuyến 20). Đoàn 68 trong Saigon đảm nhận hai nhiệm vụ “gián điệp”. Chương trình
Earth Angel xử dụng lính Bắc Việt hồi chánh, lập thành toán 3 hay 4 người, chuyên
lấy tin tức. Những người lính Bắc Việt này đã được chọn lọc, tuyển mộ từ các
trung tâm Chiêu Hồi, họ phải qua kỳ thử nghiệm máy dò sự thật (polygraph) trước
khi được nhận vào chương trình. Chương trình Pike Hill xử dụng người gốc Khmer
(Miên) để lấy tin tức. Họ cũng lập thành toán tử 3 đến 5 người, trở về “nằm vùng”
trên đất Miên. Để bảo mật, đoàn 68 có “văn phòng” trong Saigon, các toán nằm rải
rác, được huấn luyện trong trung tâm huấn luyện Yên Thế gần Long Thành.
4. HOẠT ĐỘNG, KHẢ NĂNG
Cho đến đầu năm 1972,
Nha Kỹ Thuật đảm trách các chuyến hành quân xâm nhập ngoại biên (Lào, Miên),
tuy nhiên sau trận tấn công mùa xuân 1972 (tháng 4, 1972), Nha Kỹ Thuật được lệnh,
đổi hướng hoạt động về trong nội điạ miền nam Việt Nam. Nhiệm vụ vẫn thâu thập
tin tức tình báo chiến lược cho các vùng chiến thuật. Việc thay đổi này còn đáp
ứng với khả năng không trợ của Nha Kỹ Thuật, lúc đó sự yểm trợ của Hoa Kỳ đã giảm
sút rất nhiều, kể cả phi đoàn trực thăng Kingbee 219 (Hoa Kỳ trả lương). Chuyện
này làm cho Nha Kỹ Thuật mất đi khả năng hoạt động độc lập, tổ chức các chuyến
hành quân vượt biên sang Lào và Cambodia, thâu thập tin tức tình báo cho cơ
quan MACV và bộ TTM/QLVNCH. Các toán biệt kích Lôi Hổ thuộc sở Liên Lạc, sở Công
Tác đã thực hiện hơn 200 chuyến hành quân xâm nhập, lấy tin tức tình báo, dò tìm
mục tiêu cho Không Quân Việt Nam oanh kích trên các vùng chiến thuật, và vẫn sẵn
sàng vượt biên trở lại ra miền Bắc hoặc sang Lào, Cambodia khi có lệnh.
II. TOÁN CỐ VẤN NHA KỸ
THUẬT (STDAT-158)
1. NGUYÊN NHÂN, NHIỆM VỤ
Đơn vị Đoàn Nghiên Cứu
Quan Sát (MACV-SOG) ngưng hoạt động ngày 30 tháng Tư năm 1972, sau khi đã xây dựng,
trợ giúp Nha Kỹ Thuật trưởng thành, vững mạnh trong hai năm qua. Để thay thế đơn
vị SOG, một ban cố vấn hỗn hợp được thành lập gồm những nhân viên, quân nhân còn
lại của đơn vị SOG. Ban cố vấn mới, danh hiệu “Toán Cố Vấn Nha Kỹ Thuật 158”
(STDAT-158) gồm có: 152 quân nhân Lục Quân, 6 Hải Quân, và 2 Không quân. Ban cố
vấn 158 được thành lập bí mật do sắc lệnh ngày 30 tháng Tư năm 1972, với chữ ký
của Tham Mưu Trưởng cơ quan MACV.
Toán Cố Vấn Nha Kỹ Thuật
158 bắt đầu hoạt động kể từ ngày 1 tháng Năm 1972 với nhiệm vụ cố vấn, trợ giúp,
cung cấp giới hạn tài khoản, vật liệu cho Nha Kỹ Thuật. Với khả năng giới hạn,
toán Cố Vấn 158 góp ý trong việc soạn thảo kế hoạch, chương trình chiến tranh
ngoại lệ và giữ vai trò liên lạc giữa NKT với cơ quan MACV về tin tức tình báo
chiến lược. Toán Cố Vấn 158 cũng được lệnh báo cáo với trưởng phòng 2 (Tình Báo)
và 3 (Hành Quân) cơ quan MACV (sau này thâu nhỏ thành (MAC DI, DO) về các hoạt
động của Nha Kỹ Thuật.
Ngoài nhiệm vụ cố vấn,
sau này toán Cố Vấn 158 được lệnh tổ chức, thành lập, điều hành, trang bị, huấn
luyện đơn vị Đơn Vị Đặc Nhiệm (SMF) và Đơn Vị Thâu Hồi Vùng Biển (CRF). Cho đến
giữa tháng Mười Một năm 1972, toán cố vấn 158 vẫn có nhân viên làm việc trong các
căn cứ của Nha Kỹ Thuật. Cơ quan MACV ra lệnh rút bớt quân, tái tổ chức toán Cố
Vấn 158 chỉ còn lại 42 quân nhân Lục Quân, 1 Hải Quân và 1 Không Quân. Kể từ ngày
1 tháng Mười Hai năm 1972, toán Cố Vấn 158 tiếp tục vai trò cố vấn, trợ giúp
cho Nha Kỹ Thuật, tuy nhiên khả năng giảm xuống nhiều. Toán Cố Vấn được lệnh, tận
dụng năng lực thực hiện những điều sau:
1.
Soạn thảo, phối hợp việc “giảm quân” của
chính đơn vị (STDAT-158)
2.
Hoàn thành trách nhiệm để Nha Kỹ Thuật có
thể đảm nhận mọi hoạt động, hành quân cũng như tiếp vận.
3.
Phát triển hai đơn vị Đơn Vị Đặc Nhiệm
(SMF), Thâu Hồi Vùng Biển (CRF) để có thể sẵn sàng hành quân.
4.
Thi hành lệnh từ vị Tham Mưu Trưởng cơ
quan MACV, do sự yêu cầu khẩn cấp của vị Cố Vấn Trưởng Quân Đoàn II, thành lập
một toán huấn luyện đặc biệt và toán Cố Vấn 158 phải yểm trợ trong việc huấn
luyện một số đơn vị VNCH (các đại đội Trinh Sát) kỹ thuật Viễn Thám, Biệt Động
Quân, để các đơn vị này có thể tấn công sâu vào hậu phương của địch.
Vấn đề khó khăn nhất
trong vai trò cố vấn, toán Cố Vấn 158 gặp phải là việc xử dụng Nha Kỹ Thuật (các
vùng chiến thuật VNCH). Trận tấn công tháng Tư 1972, làm thay đổi quan niệm việc
xử dụng các toán biệt kích Lôi Hổ trong việc thâu thập tin tức tình báo chiến
lược. Trong tháng Tư năm 1972, các bộ tư lệnh vùng I, II, III, và Biệt Khu Thủ Đô
được quyền xử dụng các toán biệt kích Nha Kỹ Thuật trong vùng trách nhiệm như một
đơn vị trực thuộc. Tiếp theo, phi đoàn trực thăng 219 Kingbee trở về Không Quân
(người Hoa Kỳ không tài trợ nữa) trong tháng Năm 1972 làm suy yếu khả năng không
trợ, lúc đó Nha Kỹ Thuật hoàn toàn nhờ vào khả năng không trợ của cấp quân đoàn.
Việc trực thuộc quân đoàn
thay đổi nhiệm vụ (thâu hẹp) của Nha Kỹ Thuật, lấy tin tức tình báo tác chiến
(chiến thuật) thay vì chiến lược như trước. Đến tháng Mười năm 1972, tình hình
quân sự phiá VNCH đã ổn định, các vùng chiến thuật mới đem vấn đề “tình báo chiến
lược” trở lại. Đến giữa tháng Mười Một, Không Quân VNCH được lệnh cung cấp thêm
vấn đề không trợ trên các vùng chiến thuật và các toán biệt kích Lôi Hổ đã thực
hiện được 10 chuyến hành quân vượt biên, trong thời gian bản báo cáo đang được
biên soạn.
Theo lệnh Tổng Thống
Hoa Kỳ, chấm dứt tất cả các hoạt động chống lại chính quyền Hà Nội (hiệp định
ngừng bắn Paris sắp được ký kết), ngày 15 tháng Giêng năm 1973, toán Cố Vấn Nha
Kỹ Thuật 158 được lệnh chấm dứt các hoạt động chống lại Bắc Việt. Ngày 28 tháng
Giêng 1973, hiệp định ngừng bắn Paris có hiệu lực, toán Cố Vấn 158 chuẩn bị bàn
giao kho tiếp vận (House 50) cho Nha Kỹ Thuật, đến ngày 12 tháng Ba năm 1973,
toán Cố Vấn 158 chấm dứt (giải tán).
(Phần thêm vào): Ngày 9
tháng Hai năm 1973, cấp chỉ huy toán cố vấn họp với vị chỉ huy cơ quan MACV và
vị Tổng TMT QLVNCH bàn về ảnh hưởng việc giải tán toán Cố Vấn 158 đối với Nha Kỹ
Thuật. Những “vấn đề” sau đây được nhận diện và bàn luận:
1.
Mọi tài khoản yểm trợ Nha Kỹ Thuật trong
hành quân đặc biệt, chiến tranh ngoại lệ sẽ chấm dứt. Đoàn 68 sẽ giải tán. Biệt
kích Earth Angels giải tán. Điệp viên Pike Hill sẽ chuyển sang QLVNCH. Phần còn
lại tùy thuộc NKT
2.
Không yểm (đã bị giới hạn) cho NKT sẽ chấm
dứt.
3.
Quyền xử dụng không ảnh của NKT để soạn
thảo hành quân xâm nhập qua phòng 2 MACV sẽ chấm dứt.
4.
Nha Kỹ Thuật được bàn giao kho tiếp liệu
có sẵn của đơn vị SOG. STD không được cung cấp thêm đồ tiếp vận đặc biệt. SOG dự
trù NKT có thể xử dụng kho tiếp vận khoảng một năm.
Buổi họp tập trung vào
việc trả lại NKT nhiệm vụ ban đầu, thâu thập tin tức tình báo chiến lược. Vị Tổng
TMT QLVNCH nói rằng, phi đoàn trực thăng 219 Kingbee sẽ được dành riêng yểm trợ
các toán biệt kích Lôi Hổ. Sau cùng vị Tổng TMT QLVNCH được thông báo sẽ chấm dứt
vai trò của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, mọi liên lạc sẽ do cơ quan DAO (Phòng
Tùy Viên Quân Sự) đảm trách.
CHƯƠNG
2
PHÒNG
QUẢN TRỊ HÀNH CHÁNH, NHÂN VIÊN
1. TỔNG QUÁT
Trong thời gian từ 1 tháng
Năm 1972 đến 30 tháng Mười Một 1972, phòng Quản Trị Hành Chánh, Nhân Viên tiếp
tục trông nom, điều hành vấn đề hành chánh cho toán Cố Vấn Nha Kỹ Thuật 158, và
hỗ trợ phòng nhân viên Nha Kỹ Thuật (lãnh tiền công tác do Hoa Kỳ đài thọ).
Bắt đầu từ ngày 1 tháng
Mười Hai 1972, nhiệm vụ phòng Quản Trị Hành Chánh, Nhân Viên do Sĩ Quan Điều Hành
(Executive Officer) đảm trách (phòng giải tán).
2. TỔ CHỨC
Tổng Quát:
Trong thời gian kể trên, phòng Quản Trị Hành Chánh, Nhân Viên chia ra làm hai
ban: ban Hành Chánh Nhân Viên và ban Phân Loại và Hồ Sơ. Phòng này có 1 sĩ quan
và bốn binh sĩ làm việc.
Ban Hành Chánh Nhân Viên:
Ban này có nhiệm vụ:
1.
Đề nghị, chuẩn bị và phân phát cho nhân
viên trong toán Cố Vấn 158 giấy tờ hành chánh, thủ tục dựa theo lệnh cấp chỉ
huy.
2.
Lập bản báo cáo mỗi buổi sáng về vấn đề
nhân viên, gửi cho Nhóm Cố Vấn Lục Quân (cấp cao hơn).
3.
Đón nhận, thuyên chuyển (bổ sung) nhân
viên theo thủ tục hành chánh.
4.
Theo dõi vấn đề quản trị nhân viên theo
luật lao động chính quyền điạ phương.
5.
Hoàn tất thủ tục hành chánh cho nhân viên,
được huy chương, bằng khen, gia hạn thời gian phục vụ, đi phép, báo cáo tổn thất…
6.
Hoàn tất hồ sơ, yêu cầu của nhân viên về
thời gian phục vụ, trường hợp khẩn cấp, phép thường niên cho quân nhân trong toán
Cố Vấn Nha Kỹ Thuật (STDAT-158)
7.
Phát hành bản tin cho toán cố vấn 158
8.
Trông nom thư viện, sách báo quân sự.
9.
Trợ giúp phòng Nhân Viên Nha Kỹ Thuật.
Ban Phân Loại, Hồ Sơ:
Ban này đảm trách các nhiệm vụ sau đây:
1.
Huớng dẫn cách thức phân loại hồ sơ, trách
nhiệm và kiểm soát cho nhân viên.
2.
Trông nom các bản báo cáo của ban Cố Vấn
Nha Kỹ Thuật
3.
Đảm nhận vai trò trung tâm phân phối các
công điện đi và đến.
4.
Đảm nhận vai trò theo dõi, kiểm soát, thủ
tục xử dụng hồ sơ mật.
5.
Kiểm soát, phối hợp hệ thống chuyển giao
công điện, giấy tờ an toàn (tin cậy)
3. CÁC SỰ KIỆN QUAN TRỌNG,
THÀNH QUẢ
Những sự kiện và thành
qủa sau đây xẩy ra trong khoảng thời gian từ 1 tháng Năm 1972 đến 1 tháng Mười
Hai năm 1972.
1.
Trong thời gian kể trên, những chuyến thăm
viếng, liên lạc với phòng nhân viên Nha Kỹ Thuật cho biết, phòng nhân viên NKT
gặp khó khăn trong vấn đề thiếu nhân viên làm việc hành chánh. Điều này đã được
ghi nhận để bổ xung vấn đề nhân viên.
2.
Ngày 1 tháng Năm 1972, đơn vị MACV-SOG tái
tổ chức trở nên toán Cố Vấn Nha Kỹ Thuật 158 (STDAT-158). Việc này làm thay đổi
một vài thủ tục hành chánh như: sơ đồ tổ chức mới, danh xưng trên giấy tờ…
3.
Mười nhân viên quan trọng trong toán Cố
Vấn Nha Kỹ Thuật tử nạn trên chuyến bay của hãng hàng không China Airlines, bị
rơi ngày 5 tháng Sáu năm 1972. Phòng nhân viên phải lo thủ tục giấy tờ cho vụ
tai nạn trên (báo cáo tổn thất, thư chia buồn cho gia đình các nạn nhân…). Việc
này phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan MACV và USARV.
4.
Các vụ giảm quân trong tháng Năm, tháng
Mười gia tăng công việc cho phòng nhân viên.
5.
Trong tháng Mười Một, ban Phân Loại, Hồ
Sơ chuyển qua, đặt dưới quyền điều hành của
phòng Hoạt Động/Tình Báo. Bắt đầu từ ngày 17 tháng Mười Một, sĩ quan Điều
Hành (Executive Officer) được báo cáo, thuyết trình về công việc, nhiệm vụ của
ban nhân viên và ngày 1 tháng Mười Hai, ban nhân viên đặt dưới quyền điều hành
của sĩ quan Điều Hành.
Thống kê: Trong thời
gian từ 1 tháng Năm đến 30 tháng Mười Một năm 1972, phòng Quản Trị Hành Chánh,
Nhân Viên đã hoàn tất 97.270 giấy tờ, 749 tài liệu mật, tối mật và 41.000 trang
giấy cho các hoạt động của toán Cố Vấn Nha Kỹ Thuật. Phòng nhân viên cũng lo giấy
tờ cho 227 huy chương, 69 huy chương ngoại quốc, 847 hành động cá nhân, phát hành
58 lệnh hành quân, và lưu trữ 968 hồ sơ cá nhân. Đến 1 tháng Mười Hai 1972, ban
Phân Loại, Hồ Sơ đã lưu trữ 1.546 hồ sơ mật, tối mật.
CHƯƠNG
3
PHÒNG
CỐ VẤN TÌNH BÁO
1. TỔNG QUÁT
Trong thời gian từ 1 tháng
Năm đến 1 tháng Mười Hai năm 1972, phòng Cố Vấn Tình Báo được tổ chức để trợ giúp
phòng 2 Nha Kỹ Thuật về tình báo. Đến tháng Mười Hai năm 1972, Nha Kỹ Thuật đã
có thể gánh vác mọi công việc phân tích, kỹ thuật tình báo cho các hoạt động, hành
quân xâm nhập.
2. TỔ CHỨC
Từ 1 tháng Năm 1972 cho
đến khi ngừng hoạt động ngày 1 tháng Mười Hai 1972, phòng Cố Vấn Tình Báo chia
thành ba ban: ban Dấu Hiệu Hiện Tại (CI), Giải Đoán (Không) Ảnh (PI), và Xử Dụng
Dữ Kiện Tình Báo (IDHS).
Vị cố vấn trưởng, phòng
Cố Vấn Tình Báo có nhiệm vụ cố vấn cho Nha Kỹ Thuật về tất cả mọi vấn đề liên
quan đến tình báo, bao gồm: đánh dấu mục tiêu, quản lý dụng cụ, đồ trang bị, tiếp
vận, và thủ tục báo cáo. Là một sĩ quan quân báo, ông ta thêm trách nhiệm an
ninh trong toán Cố Vấn Nha Kỹ Thuật (STDAT-158).
Viên cố vấn ban Dấu Hiệu
Hiện Tại là sĩ quan quân báo trong phòng Cố Vấn Tình Báo, có nhiệm vụ theo dõi
tinh hình đang xẩy ra (về mặt tình báo) trong vùng Đông Nam Á. Một mặt, cố vấn
cho Nha Kỹ Thuật, giải đoán tin tức tình báo, tìm kiếm mục tiêu, và cố vấn cho
những điều kiện về ngành tình báo. Ông ta điều khiển các hoạt động thâu thập
tin tức tình báo trong các hành quân xâm nhập Phù Dung (Lào) và Thốt Nốt (Miên).
Khu vực dành cho hành quân Phù Dung bao gồm các hoạt động trên đất Lào và phiá
bắc miền nam Việt Nam từ khu vực tam biên trở ra. Trong khi hành quân Thốt Nốt
bao gồm các hoạt động trên đất Miên và miền nam Việt Nam từ khu vực tam biên trở
xuống.
Ban Giải Đoán (Không) Ảnh,
trợ giúp Nha Kỹ Thuật giải đoán tin tức tình báo từ hình ảnh, kỹ thuật, trông
coi phòng tráng phim ảnh. Ban Giải Đoán (Không) Ảnh cung cấp hình ảnh mục tiêu,
phụ giúp trong việc soạn thảo, chuẩn bị hành quân xâm nhập.
Viên cố vấn trong ban Xữ
Dụng Dữ Kiện Tình Báo (IDHS) điều hành một ban hỗn hợp Việt/Mỹ soạn thảo, lưu
trữ dữ kiện tình báo trong máy điện toán (computer) dành cho các hoạt động của
Nha Kỹ Thuật. Những dữ kiện này được in ra, một phần trong ‘gói’ mục tiêu cho các
chuyến hành quân xâm nhập của Nha Kỹ Thuật.
3. CÁC HOẠT DỘNG QUAN
TRỌNG, THÀNH QUẢ
1. TỔNG QUÁT: Các hoạt
động thâu thập tin tức tình báo của Nha Kỹ Thuật và toán cố vấn STDAT thay đổi
nhiều so trận tấn công của quân đội Bắc Việt tháng Tư năm 1972 (Người Hoa Kỳ gọi
là Trận Tấn Công Lễ Phục Sinh, người Việt gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa). Điều hiển nhiên,
mọi nỗ lực được xử dụng chống lại trận tấn công này. Các chuyến hành quân ngoại
biên của Nha Kỹ Thuật đều được đổi hướng về nội điạ miền nam Việt Nam, yểm trợ
cho các vùng chiến thuật. Suốt mùa hè và mùa thu năm 1972, các đơn vị Nha Kỹ
Thuật đặt dưới quyền chỉ huy các vị tư lệnh quân đoàn. Điều này làm cho sĩ quan
tình báo (S2) ít việc làm, tuy nhiên với nhiệm vụ mới, Nha Kỹ Thuật lập thêm ban
tình báo nội điạ, ngoài hai ban đã có từ trước, thâu thập tin tức tình báo cho
hai khu vực hành quân Phù Dung (Lào), Thốt Nốt (Miên).
2. CÁC HOẠT ĐỘNG ĐẶC BIỆT:
Ngày 21 tháng Năm 1972, Tổng TMT QLVNCH và vị Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ Vùng Thái
Bình Duơng (CINCPAC) ra lệnh cho toán cố vấn Nha Kỹ Thuật soạn thảo một chương
trình cho các hoạt động đặc biệt. Tin tức sẽ do phòng Cố Vấn Tình Báo cung cấp.
Để thỏa mãn nhu cầu, phòng cố vấn tình báo cần sự trợ giúp ở cấp cao hơn. Công điện
yêu cầu gửi Phòng Tình Báo cơ quan MACV (MACDI) ngày 1 tháng Sáu năm 1972, đánh
dấu sự thành công, thắng lợi trong việc cộng tác, phối hợp với Trung Tâm Tình Báo
Hỗn Hợp, tại Việt Nam (CICV). Với sự hướng dẫn của phòng Tình Báo, CICV phân tích
ra chin loại mục tiêu căn bản, sau đó phòng Tình Báo điều chỉnh lại dựa trên
kinh nghiệm chiến tranh ngoại lệ. Tổng kết, cơ quan CICV soạn ra 21 mục tiêu
cho Nha Kỹ Thuật cùng toán cố vấn xử dụng. Tất cả các mục tiêu đều được phòng Tình
Báo sửa chữa, điều chỉnh hàng ngày, các hình (không) ảnh được giải đoán, phân tích
mục tiêu cùng khu vực xung quanh, nghiên cứu và quan niệm hành quân được đưa
ra.
Yểm Trợ Quân Đoàn I:
Trong tháng Năm 1972, sở Công Tác (SMS) đặt dưới quyền chỉ huy Quân Đoàn I. Để
dễ làm việc, sở Công Tác lập bộ chỉ huy tiền phương ở Huế, được Nha Kỹ Thuật tăng
cường thêm một bộ phận từ BCH/NKT và sự trợ giúp của toán Cố Vấn STDAT. Ngày 25
tháng Năm, phòng Tình Báo gửi ra Huế hai nhân viên cùng với bộ phận tình báo
Nha Kỹ Thuật. Toán tình báo Nha Kỹ Thuật phối hợp với các đơn vị bạn trên vùng
I chiến thuật. Toán Tình Báo cố vấn cho QĐ I về khả năng cũng như giới hạn của
những toán biệt kích sở Công Tác để họ xử dụng hiệu quả.
Hành Quân Thốt Nốt (Miên):
Tìm mục tiêu trong khu vực hành quân Thốt Nốt được phòng Tình Báo nhận diện, đánh
dấu từng mục tiêu. Vào cuối tháng Tám, Nha Kỹ Thuật sửa lại chương trình hành
quân trên đất Cambodia, phòng Tình Báo đưa bốn “điểm” cho mục tiêu trong khu vực
căn cứ điạ 354 của địch (nơi phiá bắc khu vực Mỏ Vẹt Parrot’s Beak trên đất Miên).
Bốn “điểm” bao gồm không ảnh bãi đáp cho toán biệt kích xâm nhập, đường triệt
xuất (khuyến cáo, recommend), đường mòn, và khu vực tình nghi có kho tiếp vận của
địch. Phòng Tình Báo đề nghị cho bốn toán biệt kích Lôi Hổ (sở Liên Lạc) xâm nhập
vào thám sát căn cứ điạ 354 tại bốn tọa độ cách biệt để lấy tin tức đem về. Nha
Kỹ Thuật xử dụng ba (3) toán biệt kích, một toán xâm nhập vào vị trí (tọa độ)
thứ tư bao gồm bãi đáp cho trực thăng vào triệt xuất (đem các toán biệt kích Lôi
Hổ về).
Các toán Lôi Hổ được trực
thăng Việt-Mỹ đưa vào khu vực xâm nhập đêm 2 tháng Chín năm 1972. Các toán biệt
kích báo cáo, có nhiều dấu hiệu hoạt động của địch (chuyển quân, tiếp vận)
trong khu vực căn cứ điạ 354 và xác nhận quân đội Bắc Việt xử dụng đường (mòn)
di chuyển quân dụng, đồ tiếp vận. Các toán biệt kích được triệt xuất đưa về căn
cứ ngày 12 tháng Chín, sau đó căn cứ điạ 354 bị 35 phi vụ B-52 (ARC LIGHT) thả
bom. Mười sáu (16) trong số 35 phi vụ trên tọa độ do các toán biệt kích Lôi Hổ đem
về. Nha Kỹ Thuật cùng toán cố vấn giải đoán tin tức nhanh chóng, cơ quan MACV đã
phản ứng tức thời trên các mục tiêu của địch. Các bản báo cáo vào cuối tháng Mười
Một cho biết, quân đội Bắc Việt/VC bị tổn thất nặng về nhân mạng, hai căn cứ huấn
luyện Đặc Công vị phá hủy do các trận B-52 thả bom.
Phấn khởi sau chuyến xâm
nhập căn cứ điạ 354, phòng Tình Báo soạn thảo một quan niệm tình báo khác cũng
như mục tiêu trên đất Cambodia vào cuối tháng Chín. “Gói” tình báo này bao gồm
ba mục tiêu trong khu vực Stung Treng và Siem Pang. Nha Kỹ Thuật (đoàn 68) sẽ gài
vào mỗi mục tiêu một toán biệt kích Pike Hill (người Việt gốc Miên), nằm vùng tử
30 đến 60 ngày. Các toán Pike Hill sẽ nhẩy dù xâm nhập, sau khi hoàn thành nhiệm
vụ, họ sẽ di chuyển bộ lên đến một điểm (tọa độ) trên đất Lào và sẽ được trực
thăng đem về. Kế hoạch được duyệt xét, chấp thuận ngày 4 tháng Mười năm 1972 rồi
chuyển đến tòa Đại Sứ Hoa Kỳ ở Vạn Tượng (Vientiane) cho vị đại sứ xem xét (liên
quan đến Lào). Vị đại sứ chấp thuận ngày 31 tháng Mười Hai, tuy nhiên vì thiếu
phương tiện không trợ (người Hoa Kỳ rút quân), sau đó là hiệp định ngừng bắn
Paris (28/1/1973), chương trình Pike Hill bị bỏ qua.
Phòng Tình Báo soạn thảo
một chương trình hoạt động khác trên đất Miên theo sự yêu cầu của phòng Tình Báo
cơ quan MACV và cơ quan Tình Báo Hỗn Hợp (CICV). Nhiệm vụ khởi thủy, xác nhận báo
cáo về đường dây cáp (cable) gần thị trấn Kratie nối liền Trung Ương Cục Miền
Nam (COSVN) với Hà Nội. Kế hoạch này bị tạm thời hoãn lại, trong khi các nỗ lực
tìm kiếm đường dây cáp (do các toán biệt kích Lôi Hổ) vẫn được thực hiện. Trong
thời gian trì hoãn, khu vực tình nghi bị phi cơ B-52 dội bom (Trung Ương Cục Miền
Nam). Sau trận thả bom, nhiệm vụ ban đầu được thay đổi sang “thẩm định kết qủa
trận thả bom” (BDA). Nhiệm vụ này cũng bị đình lại cho đến tháng Mười Hai năm
1972, người Hoa Kỳ cần phương tiện phi cơ để rút quân ra khỏi miền nam. Sau đó
tất cả đều bị hủy bỏ do lệnh ngừng bắn ngày 28 tháng Giêng 1973.
Trung Tâm Thâu Hồi Nhân
Mạng Hỗn Hợp (JPRC): Mặc dầu cơ quan này lấy tin tức tình báo
từ phòng Tình Báo MACV, Phòng Tình Báo NKT/STDAT vẫn có nhiệm vụ cung cấp tin tức
tình báo hành quân cho Đơn Vị Đặc Nhiệm (SMF) mới thành lập. Đơn vị SMF có nhiệm
vụ giải cứu tù binh, thâu hồi tử thi, thám sát khu vực phi cơ bị rơi. Trong thời
gian bản báo cáo được viết, một chuyến hành quân cứu tù binh được soạn thảo nhưng
không thi hành vì tin tức tình báo cho biết, địch đã di chuyển trại giam giữ tù
binh đến một nơi khác bí mật.
Thủ Tục Lưu Trữ Hồ Sơ Tình
Báo:
Những bản báo cáo về mục tiêu được Nha Kỹ Thuật, toán Cố Vấn xử dụng, tuy nhiên
bằng tiếng Anh và một số rất ít (giới hạn) cấp chỉ huy Nha Kỹ Thuật được biết.
Trong tháng Sáu năm 1972, để chuẩn bị bàn giao hoàn toàn cho NKT, bản báo cáo
hai ngôn ngữ Việt-Mỹ được hoàn thành, Nha Kỹ Thuật hoàn toàn nhận được tin tức
tình báo bằng tiếng Việt.
Giải Đoán (Không) Ảnh:
Ban Giải Đoán Không Ảnh cung cấp tin tức tình báo, yểm trợ cho việc huấn luyện Đơn
Vị Đặc Nhiệm (SMF) trên quân đoàn 2. Những nhu cầu tin tức bao gồm: không thám,
chụp ảnh và giải đoán không ảnh về mục tiêu, sự phòng thủ (mục tiêu) của địch.
Những không ảnh cùng sự giải đoán cũng được cung cấp cho các toán biệt kích sở
Liên Lạc, sở Công Tác Nha Kỹ Thuật. Ban này còn có trách nhiệm trông coi kho
(thư viện) bản đồ hành quân. Khi bàn giao cho Nha Kỹ Thuật, kho có hơn 1000 tấm
bản đồ.
An Ninh:
Trong giai đoạn rút quân, đóng cửa các căn cứ của Hoa Kỳ, vấn đề an ninh được nêu
lên hàng đầu. Các toán cố vấn được “thăm viếng”, thanh tra thường xuyên do cơ
quan “Phản Gián” MACV. Phòng Tình Báo là điểm liên lạc cho các chuyến thanh
tra, đại diện cho toán Cố Vấn Nha Kỹ Thuật trong Ủy Ban Cố Vấn (vấn đề) Phản Gián
thuộc cơ quan MACV.
Thuyết Trình Tin Tức Tình
Báo:
Phòng Tình Báo có nhiệm vụ thuyết trình hàng tuần về tin tức tình báo hiện thời
cho sĩ quan cố vấn trưởng và ban tham mưu. Các buổi thuyết trình này đem lại những
tin tức tình báo mới nhất, những chuyện đang xẩy ra trong vùng Đông Nam Á.
CHƯƠNG
4
SOẠN
THẢO HÀNH QUÂN, HUẤN LUYỆN
1. TỔNG QUÁT
Toán Cố Vấn Nha Kỹ Thuật
STDAT-158 được thành lập ngày 1 tháng Năm 1972, một bộ chỉ huy chương trình 30
(Ops-30) có nhiệm vụ theo dõi, phối hợp các hoạt động của toán cố vấn bao gồm:
soạn thảo kế hoạch, bổ sung nhân viên, huấn luyện, tâm lý chiến để toán cố vấn
trợ giúp Nha Kỹ Thuật thực hiện chiến tranh ngoại lệ, thám sát và các hành quân
đặc biệt. Bộ chỉ huy chương trình 30 gửi báo cáo hàng tuần, hàng tháng lên cơ
quan MACV và vị Tư Lệnh Thái Bình Dương (CINCPAC) về các hoạt động của toán cố
vấn cùng Nha Kỹ Thuật. Thêm vào, bộ chỉ huy chương trình 30 cung cấp liên lạc,
theo dõi, phối hợp các hoạt động đơn vị Đơn Vị Đặc Nhiệm (SMF) và (cho đến ngày
31 tháng Mười) Đơn Vị Thâu Hồi Trên Biển (CRF). Chương trình 30, ngoài sĩ quan
Lục Quân trách nhiệm soạn thảo, huấn luyện, tâm lý chiến, có thêm một sĩ quan Hải
Quân và hai sĩ quan liên lạc Không Quân. Từ tháng Bẩy 1972 đến tháng Mười 1972,
ban tâm lý chiến có thêm một sĩ quan từ Đoàn 7 Tâm Lý Chiến đến từ Okinawa.
Chương trình 30 thảo nhiều công điện
liên lạc giữa cố vấn trưởng STDAT và vị
Giám Đốc (CHT) Nha Kỹ Thuật về vấn đề hoạt động, cơ cấu tổ chức của Nha Kỹ Thuật.
Cho đến ngàý tháng Mười Hai, toán cố vấn STDAT-158 phối hợp không trợ, kể cả các
phi vụ ARC LIGHT, B-52 thả bom, làm việc với phòng Hành Quân cơ quan MACV hàng
ngày.
Tháng Năm, Sáu 1972:
Soạn thảo, phối hợp chương trình theo lệnh CONPLAN 5108 từ vị Tư Lệnh Thái Bình
Dương (CINCPAC). Theo dõi, bổ sung nhân sự cho đơn vị bảo vệ đài kiểm báo
Golf-5 trên đất Lào.
Tháng Bẩy 1972:
Bổ sung nhân viên để tổ chức, thành lập Đơn Vị Hành Quân Đặc Biệt (SMF) và Đơn
Vị Thâu Hồi Trên Biển (CRF). Hoàn tất sự phối hợp, liên lạc theo lệnh “Giảm Quân”
(Increment 14). Tiếp tục soạn thảo phối hợp theo lệnh CONPLAN 5108. Cung cấp sĩ
quan hướng dẫn và nhân viên trong chuyến thăm viếng (học hỏi) của toán Chống Xâm
Nhập, Lục Quân Mã Lai.
Tháng Tám, Chín 1972:
Tiếp tục công việc soạn thảo, phối hợp, cử nhân viên, sỉ quan liên lạc Không Trợ
(ALC) qua thăm căn cứ yểm trợ bên Thái Lan dựa theo CONPLAN 5108. Sắp đặt nhân
viên thi hành lệnh CONPLAN 5100. Tổ chức, bổ sung nhân viên thành lập toán huấn
luyện đặc biệt (STT).
Tháng Mười, Mười Một
1972: Điều chỉnh lại tổ chức, nhiệm vụ, theo lệnh giảm quân
J-14, cấp trên cũng tổ chức lại thành ban Hoạt Động, Tình Báo, quân số từ 15 xuống
7 người. Loại thêm một sĩ quan liên lạc Hải Quân, ban tâm lý chiến. Nghiên cứu
các hoạt động thù địch của đối phương sau khi rút hết quân đội Hoa Kỳ.
Tháng Mười Hai 1972:
Chính thức tái tổ chức ban Hoạt Động, Tình Báo, di chuyển cơ sở, văn phòng cơ
quan, loại bỏ bớt hồ sơ mật. Gánh trách nhiệm trông nom các hồ sơ mật, thư từ,
văn thư cho toán Cố Vấn Nha Kỹ Thuật STDAT. Liên lạc với cơ quan Trung Tâm Thâu
Hồi Nhân Mạng (JPRC), thảo kế hoạch yểm trợ cơ quan này trong các hoạt động sau
hiệp ước ngừng bắn. Soạn thảo kế hoạch chương trình liên lạc với đối tác (các cơ
quan VNCH liên hệ).
Tháng Giêng 1973:
Theo công điện số 180014Z trong tháng Giêng 1973 của Tham Mưu Trưởng Quân Đội
Hoa Kỳ (tại Việt Nam) và công điện số 272139Z của Tư Lệnh Thái Bình Dương, ngưng
tất cả các hoạt động đặc biệt, chấm dứt chương trình chiến tranh tâm lý chống lại
miền Bắc Việt Nam. Chuẩn bị giải tán toán Cố Vấn Nha Kỹ Thuật trong vòng 45 ngày
kể từ ngày hiệp định ngừng bắn có hiệu lực, ngày 28 tháng Giêng năm 1973. Tiếp
tục theo dõi, phối hợp đơn vị Lực Lượng Hành Quân Đặc Biệt (SMF).
Tháng Hai, Ba 1973:
Thâu thập, viết lại, sửa chữa lịch sử toán Cố Vấn Nha Kỹ Thuật STDAT, trình lên
ban quân sử cơ quan MACV. Tiếp tục theo dõi, phối hợp Lực Lượng Hành Quân Đặc
Biệt thám sát vị trí phi cơ lâm nạn cho đến khi đơn vị này giải tán vào ngày 9
tháng Ba năm 1973. Theo đà giảm quân, ban Hành Quân, Tình Báo và toán Cố Vấn
Nha Kỹ Thuật chấm dứt nhiệm vụ vào ngày 12 tháng Ba năm 1973.
CHƯƠNG
5
1. TỔNG QUÁT
No comments:
Post a Comment